Thứ Hai, 23 tháng 2, 2015

MÙA XUÂN TRẢY HỘI ĐỀN VÀ

MÙA XUÂN TRẢY HỘI ĐỀN VÀ
          Đền Và là nơi thờ Đức Thánh Tản Viên sơn - Sơn Tinh.
          Sơn Tinh là vị thánh đứng đầu Tứ Bất tử của nước Nam (Sơn Tinh, Chử Đồng Tử, Thánh Gióng, Liễu Hạnh). Sơn Tinh nổi tiếng với truyền thuyết cuộc chiến chống Thuỷ Tinh trị thuỷ thời hồng hoang, biểu hiện của sự đoàn kết toàn dân chống lại sự tàn phá của thiên nhiên, được người đời tôn vinh là Đức Thánh Tản. Truyền thuyết lịch sử về Sơn Tinh đến ngày nay vẫn còn lưu truyền mãi mãi, thể hiện sự tích anh hùng và tâm linh của con người đất Việt. Tương truyền thời giặc phương Bắc đô hộ nước ta, viên quan (tiết độ sứ) cai trị là Mã Viện - một thầy phù thuỷ cao tay dùng phép thuật yểm bùa phá các long mạch và chấn hết các huyệt thiêng của nước Nam, hòng làm cho đất nước ta không phát triển được để dễ bề cai trị. Nhưng khi Mã Viện yểm bùa chấn 2 huyệt là Hồ Tây và Tản Viên sơn (Núi Ba Vì) thì bị thất bại vì ở đó Mã Viện gặp phải các vị thánh linh thiêng và cao siêu của nước Nam (ở Tản Viên Sơn do Sơn Tinh chấn giữ) làm cho Mã Viện không thể chấn yểm được. Như vậy, có thể thấy Đức Thánh Tản là vị anh hùng dân tộc, dẫu hoá thân thành Thánh nhưng giặc không thể nào khuất phục được Ngài (cũng chính là không thể khuất phục được lòng dân đất Việt). Ngài thật xứng đáng là vị thánh đứng đầu các vị thánh trời Nam (vị thánh tổ của bách thần- đệ nhất phúc thần).
Đền Và thờ đức Thánh Tản
Có rất nhiều đền thờ Đức Thánh Tản Viên sơn, nhất là ở vùng xung quanh núi Ba Vì như Sơn Tây, Phú Thọ, Vĩnh Phúc...Một trong những đền thờ linh thiêng đó là Đền Và ở Sơn Tây. Đền Và toạ lạc trên một đồi lim nhỏ cạnh Quốc lộ 21 kéo dài từ thị xã Sơn Tây đi Trung Hà thuộc xã Trung Hưng (Sơn Tây, Hà Nội).Về quy mô, Đền Và tuy không to, không lớn, không rộng nhưng là một công trình kiến trúc văn hoá vật thể đặc sắc vừa mang tính cổ truyền vừa mang tính hiện đại, bởi Đền Và thường xuyên được trùng tu, tôn tạo.
          Theo truyền thuyết vào thời Hùng Vương thứ 18 có ba vị đức thánh, thần phò vua Hùng dựng nước. Nguyên ba vị thánh, thần đó là 3 anh em con chú, con bác nhà họ Nguyễn, người anh con ông bác là Nguyễn Tuấn (tên huý của Sơn Tinh) còn hai người em sinh đôi con ông chú là Nguyễn Hiền và Nguyễn Sùng. Ba người anh hùng đó sau khi giúp vua Hùng đánh tan giặc, liền xin với vua đi khắp các làng mạc giúp dân khai điền, đắp đê, trị thuỷ; dạy dân cày ruộng cấy lúa nước, phá rẫy trồng lúa nương, lấy ống cây nứa, cây bương, cây giang trong rừng cho gạo vào nấu thành cơm lam. Việc giúp dân khai sơn, trị thuỷ, đắp đê chống lụt có rất nhiều hiệu quả, hàng năm mùa màng tốt tươi, mang lại no ấm cho các bản làng. Việc có ích đó dần dần trở thành ý thức tự giác trong nhân dân cả nước, như một phép mầu để nhân dân hàng năm đắp thêm nhiều đê ngăn nước lũ, chiến thắng thuỷ thần. Ba anh em đi đến đâu cũng được nhân dân tin yêu, quý mến và tôn vinh, riêng Sơn Tinh được tôn vinh là ông vua trị thuỷ, người đời truyền gọi ba anh em là “Một thánh, hai thần” Đức Thánh Tản Sơn Tinh (Nguyễn Tuấn), Cao Sơn thần (Nguyễn Hiền), Quý minh thần (Nguyễn Sùng). Một lần Đức Thánh Tản Sơn Tinh phò vua Hùng dẹp giặc Thục xong, Người cùng quân lính đi đến bên bờ sông Tích, nơi có đất đai mầu mỡ, phong thuỷ hữu tình. Bỗng có một vầng mây hồng xà xuống che trên đầu như một cái tán khổng lồ trời buông, Sơn Tinh cho đây là điềm lành và đặt tên nơi đây là Vân Già. Ngài cho xây một Đông cung để mỗi lần đi qua có chỗ trú chân (dân làng lấy tên ấy đăt tên cho làng mình là Vân Già gọi chệch là Vân Gia). Tại nơi đây, người đời sau cho xây một đền thờ đặt tên là Đền Và (Đông cung-Đông Chấn cung). Từ đó trở đi, Đền Và là nơi thờ Đức Thánh Tản để nhân dân dâng hương cầu thánh, thần phù hộ, độ trì và tưởng nhớ đến vị những thánh, thần bất tử của trời Nam.
 Đến Đền Và bắt đầu từ tấm bia “hạ mã” đặt ở lối vào, là nơi dừng ngựa, xuống xe, xuống kiệu. Bên ngoài là giếng nước nhỏ, nước trong ngắn ngắt, ai đến thăm mà được múc nước rửa mặt thì sẽ thấy mình thanh thoát. Tiếp theo là động ngũ hổ rồi đến Nghi môn - cổng lớn dẫn vào nội đền, qua khoảng sân rộng là đến nhà tiền tế. Trong Đền Và thờ đức Quốc mẫu; thời tam vị Đức Thượng đẳng là Đức Thánh Tản Sơn Tinh (Nguyễn Tuấn), Cao Sơn thần (Nguyễn Hiền), Quý minh thần (Nguyễn Sùng). Ở đền Trung có 4 pho tượng tứ trấn mình khoác áo bào đỏ, tay cầm vũ khí, trấn giữ 4 phương Đông - Tây - Nam - Bắc quanh núi Ba Vì. Ngoài hiên là hai pho tượng quan văn và quan võ có nhiệm vụ lắng nghe lời thỉnh cầu của dân gian rồi trình lên Đức Thánh Tản. Trong Đền Và còn có 18 đạo sắc phong, 47 đôi câu đối, 18 bức hoành phi, 1 quyển văn tế, 2 tấm bia đá, 3 quả chuông đồng.
Lễ hội Đền Và
Đền Và là nơi Lễ hội của nhân dân địa phương, nơi thờ cúng Đức Thánh Tản, thánh mẫu và các huynh đệ của Ngài; là địa điểm du lịch đón khách thập phương đến thưởng ngoạn và dâng hương lễ Thánh, tỏ lòng biết ơn người anh hùng khai sơn, trị thuỷ từ thủa hồng hoang. Lễ hội Đền Và là nét đẹp của sinh hoạt văn hoá cộng đồng, văn hoá tín ngưỡng, văn hoá tâm linh, văn hoá thờ thần thánh, thờ các vĩ nhân và anh hùng dân tộc. Lễ hội Đền Và có sức lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân địa phương và du khách gần xa tham gia. Lẽ hội hàm chứa ước vọng thiêt tha của bà con nhân dân, của cộng đồng về khát vọng chiến thắng thiên tai, vươn lên làm chủ thiên nhiên. Những hoạt động tâm linh trong lễ hội gắn kết giữa linh thiêng và đời thường; giữa thánh thiện và trần tục, giữ thánh thần và anh hùng dân tộc. Lễ hội còn là truyền thống văn hoá, là nét đẹp của những tấm lòng hướng thiện, sự biết ơn, sự tôn vinh và hướng về cội nguồn.
Theo tục truyền vào mùa xuân, trung tuần tháng giêng âm lịch lễ hội được tiến hành, nhân dân trong vùng nô nức kéo nhau về dâng hương hoa cầu sự may mắn cho một năm mới. Có 8 làng tham gia rước kiệu và dự tế ở Đền Và, bao gồm làng Vân Gia, Cầu Trì, Ái Mỗ, Mai Trai, Nghĩa Phú, Đàm Trai (xã Trung Hưng, Sơn Tây); Phú Nhi (phường Phú Thịnh, Sơn Tây), Phù Sa (xã Viên Sơn, Sơn Tây); Di Bình (Vĩnh Thịnh, Vĩnh Lạc, Vĩnh Phúc). Kiệu rước bài vị tam vị Đức Thánh gồm 32 trai tráng khoẻ mạnh thay nhau khênh (16 người khênh, 16 người thay thế), ngoài ra còn có 4 người nang quạt che đai và 2 người cầm tán. Khi rước, kiệu chính đi trước đến kiệu văn (để văn tế và sự tích vị thần), tiếp đến kiệu long mũ của tam vị, sau đó đến kiệu hương hoa, oản quả. Đám rước đi vào cổng thành cổ Sơn Tây quay một vòng rồi mới ra bờ sông Hồng, khi nào thấy lá cờ tứ linh gặp gió thổi phất đuôi cờ về phía Nam thì trở lại Đền Và. Ngày Đền Và lễ hội chính là ngày 15 tháng riêng nhân dân các thôn và khách thập phương đến dâng hương hoa, oản quả viếng Đức Thánh để cầu phúc, lộc, thọ. Bên cạnh lễ hội Đền Và, nhân dân quanh vùng còn tổ chức các trò chơi dân gian như: chọi gà, đấu vật, đánh cờ người, bịt mắt đập niêu, thi nấu cơm, mặc quần áo, hát các bài hát dân ca mang đậm bản sắc văn hoá Xứ Đoài huyền thoại.
Ngày nay, Xứ Đoài đang trên đường đổi mới, kinh tế phát triển, nhân dân ngày càng no ấm, Lễ hội Đền Và lại càng được chú trọng, thể hiện sự tôn vinh và hướng về nguồn cội, đây là nét đẹp văn hoá tâm linh của người dân Sơn Tây nói riêng và cả nước nói chung. Hàng năm, vào ngày đầu xuân Đền Và mở hội, hàng vạn du khách gần xa chảy về vùng đất thiêng Xứ Đoài dự lễ. Từng dòng ô tô, xe máy đổ về đậu kín bãi đỗ xe, du khách xuống viếng Đền thắp hương tế tam vị Đức Thánh. Người ta bầy các vật phẩm của ngon vật lạ: nào chè, nào thuốc, nào bia lon, rượu ngoại, nào tiền vàng, hoa quả vào các mâm nhôm, mâm đồng dâng lên Đức Thánh, có người lầm nhầm tự khấn vái, nhiều người nhờ các cụ Thủ từ ở đền cúng hộ, nhưng dù hình thức cúng vái nào thì ai cũng thành tâm trước Thánh, Mong ngài phù hộ, độ trì cho tai qua, nạn khỏi, ăn nên, làm ra, sức khoẻ dồi dào, phát triển mọi mặt. Đi lễ hội Đền Và là món ăn tinh thần, là động lực để mỗi người tự tin hơn, vững bước trên con đường đổi mới làm giầu cho chính mình, cho quê hương đất nước, góp phần giữ gìn nét đẹp văn hoá truyền thống và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

             Nguyễn Văn Lai

Chủ Nhật, 22 tháng 2, 2015

Em về thăm quê

CHIẾC KHĂN ĐỎ


Chiếc khăn đỏ của em
Cùng em đi tới trường
Bay thướt tha trong gió
Như cùng bay với chim
Như hướng lên bầu trời
Như lá cờ Tổ quốc.

Ôi! Sao yêu chiếc khăn
Chiếc khăn là bầu trời
Chiếc khăn là Tổ quốc
Chiếc khăn là cánh chim
Đang bay cùng với gió.



Nguyễn Thị Huế
                   Khu gia đình Trường Sỹ quan Lục quân 1
        Học sinh lớp 3A-Trường Tiểu học Cổ Đông, tx Sơn Tây

























CHÚ VOI HAY BỰC MÌNH


Ở khu rừng kia, có chú voi con rất hay giận hờn, nhưng cũng có lúc vui vẻ. Một hôm chú voi đi dạo chơi, chợt voi gặp một chú chuột, chú chuột này cũng rất ham chơi, không chịu học hành gì cả, nên chú ta chẳng hiểu được ngôn ngữ của ai.
Gặp chuột, voi hỏi:
-Bạn là ai vậy ?
Chuột không hiểu voi hỏi gì, cậu ta trả lời linh tinh theo ngôn ngữ của riêng của mình.
-Chíp, chíp, chíp !
Voi tưởng chuột trêu chọc mình, liền nảy cái thói hay nóng giận ra. Voi to giọng nói:
-Ngươi muốn trêu chọc ta ư ? Hãy nên biết ngươi là quá nhỏ bé đối với ta. Ta mà giẫm ngươi thì chỉ có chết là chắc!
Nghe vậy, nhưng chuột chẳng hiểu gì cả, chú ta thảm nhiên cười và chạy đi chơi.
Tuy rất muốn có nhiều bạn, nhưng vì thói hay giận dỗi nên voi chẳng có ai chơi với mình. Một hôm, voi chán quá ngồi một mình, chợt có bác tê giác đến chơi, thấy cảnh voi ngồi buồn thiu, bác biết ngay tại sao voi lại buồn như thế. Bác ôn tồn nói:
-Cháu không có bạn là phải thôi ! vì cháu có tính hay giận dỗi. Từ nay cháu phải sửa đổi tính nết của cháu đi, thì mới có bạn.
Voi nghe lời bác tê giác, từ đó không hay giận dỗi một cách vô cớ nữa, nên voi có rất nhiều bạn thân. Có nhiều bạn bè thân thiết, nhưng voi không bao giờ quên ơn bác tê giác dạy dỗ.



Nguyễn Thị Huế
        Khu gia đình Trường Sỹ quan Lục quân 1
      Học sinh lớp 3A-Trường Tiểu học Cổ Đông, tx Sơn Tây













HAI CHÚ THỎ SINH ĐÔI


Hai chú thỏ sinh đôi
Cùng nhau luôn chăm chỉ
Cùng trồng nhiều cây xanh
Trồng nhiều hoa xinh đẹp.
Công việc vui có ích
Hàng cây lớn từng ngày
Cho những bầy chim non
Chuyền trên cây vui hót.
Tiếng chim nghe thánh thót
Trong nắng vàng líu lo.
Hàng cây chính là nhà
Cho bầy ong xây tổ
Làm mật ngọt cho đời.
Cho bầy kiến sinh sôi
Cần cù trong lao động.

Hai chú thỏ sinh đôi
Ôi! Sao yêu các chú.
Hai chú thỏ chăm chỉ
Hãy cùng với chúng tôi
Ong, bướm, chim và kiến
Làm việc tốt thật nhiều.


Nguyễn Thị Huế
         Khu gia đình Trường Sỹ quan Lục quân 1
        Học sinh lớp 3A-Trường Tiểu học Cổ Đông, tx Sơn Tây










 









 

VỀ THĂM QUÊ


                                                Em về thăm quê
                                                          Trên con đường đê
                                                Dẫn về xóm nhỏ
                                                Vẫn mái nhà tranh
                                                Vẫn cánh cò bay
                                                Vẫn đồng lúa chín
Đẹp như bức tranh
Mát lành cơn gió
Ôi yêu làm sao
Quê hương là gió
Quê hương là trăng
Quê hương là nắng
Em quý em yêu.

Em luôn cố gắng
Xứng đáng trò ngoan
Mau lớn trưởng thành
Góp công xây dựng
Quê em đẹp giàu.

Nguyễn Thị Huế
        




















CHUYỆN VỀ HAI SỢI TÓC


Ngày xưa, có hai sợi tóc đen chơi rất thân với nhau. Ngày qua ngày, một người bạn đã dần dần trở thành màu trắng, sợi tóc trắng yếu đuối và không còn nhanh nhẹn như trước nữa. Người bạn kia thấy thế nghĩ: “mình còn khoẻ thế này mà lại kết bạn và chơi với một người đã già, yếu đuối như thế nữa sao? thôi mình chẳng chơi với tóc trắng nữa!”-sợi tóc đen nghĩ thầm như vậy! Thế là người bạn tóc trắng không có ai chơi với mình nữa, nhưng tóc trắng không buồn, hàng ngày vẫn chăm chỉ làm việc. Sợi tóc đen lại tìm đến chơi với một bạn tóc đen khác còn khoẻ mạnh và nhanh nhẹn. Nhưng chỉ một thời gian sau, sợi tóc đen cũng đần dần bạc trắng như bạn cũ của mình trước kia. Người bạn mới của nó thấy thế bèn chia tay với nó, không một lời từ biệt. Buồn quá, nó ngồi một mình lặng lẽ khóc. Nhưng người bạn cũ tóc trắng lại đến bên vỗ về, chăm sóc và chơi với nó. Lúc này sợi tóc mới hiểu và hối hận “Hoá ra tình bạn mà không chân thành cũng giống như bọt nước xà phòng long lanh là vậy, nhưng lại rất chóng tan vỡ”. Từ hôm đó, đôi bạn tóc đen trước kia, bây giờ trở thành đôi bạn tóc bạc luôn thân thiết bên nhau, không xa rời nhau. Bài học ngày xưa, hai người bạn vẫn thường dạy dỗ cho con cháu của họ sau này.

     Nguyễn Thị Huế
        Khu gia đình Trường Sỹ quan Lục quân 1
                 Học sinh lớp 3A-Trường Tiểu học Cổ Đông, tx Sơn Tây


QUYỂN SÁCH


Quyển sách của em
Phần thưởng hôm qua
Mẹ mua làm quà
Mừng ngày sinh nhật
Em rở từng trang
Màu vàng màu đỏ
Có con gà trống
Có ông mặt trời
Có đồi cây nhỏ
Có những hàng tre
Rì rào trong gió
Từ khi em có
Quyển sách xinh tươi
Em luôn chăm chỉ
Đọc sách học bài
Để ngày mai đây
Dựng xây đất nước.

Nguyễn Thị Huế
     Khu gia đình Trường Sỹ quan Lục quân 1
               Học sinh lớp 3A-Trường Tiểu học Cổ Đông, tx Sơn Tây


SÔNG LÈN VÀ MẸ TÔI

                                                                        10.2013
BỐ ƠI !
Ngày nào tóc bố điểm sương
Vẫn người khoẻ mạnh phong sương dạn dày
Ngày nào bố vẫn ngồi đây
Bên trang giấy với một cây bút gầy
Chữ thánh hiền gửi gió mây
Cùng người tri kỷ giải bầy tâm tư
Ghét gian ác, quý nhân từ
Giúp người lại gặp những điều thị phi
Tai ương mấy bận đến đi
Còn là tất cả những gì sáng trong
Khổ đau nén cả vào lòng
Thiệt hơn không tính chỉ mong yên bình
Cuộc đời ngay thẳng phân minh
Dẫu nhiều oan trái không sinh oán thù
Bố là ngọn gió mùa thu
Là nguồn nước mát chảy từ núi cao
Bố là muôn triệu ánh sao
Toả muôn ánh sáng biết bao ân tình
Bố là giọt nắng bình minh
Cho con cho cả chính mình bố ơi!
Bây giờ bố đã bệnh rồi
Khó ngồi, khó nói những lời thiết tha
Cháu con xúm xít quanh nhà
Lo cho bố khỏi nhưng mà khó thay
Lạy trời cao, lạy đất dầy
Lạy tiên lạy phật, lạy ngày lạy đêm
Mong cho bố khoẻ thêm lên
Nhưng mà bố vẫn về bên ông bà
Bố ơi! con cháu cả nhà
Đớn đau khóc bố thế là bố ơi
Từ nay chẳng thấy bố rồi
Được nghe bố dạy những lời thiết tha
                                                         Tháng 7-2013

Lôc b¸t th¬:                      MÑ vÉn ®îi anh vÒ !

ChiÕn tranh dÉu ®· lïi xa
MÑ t«i vÉn mét m¸i nhµ qu¹nh hiu
VÉn ngåi tùa cña nh÷ng chiÒu
Ph­¬ng trêi xa m¾t ®¨m chiªu ngãng nh×n
Bèn m­¬i n¨m mÑ lÆng im
§øt tõng khóc ruét ch­a t×m ®­îc con
Anh n»m nghØ gi÷a Tr­êng S¬n
§Ó lßng mÑ quÆn, nÐn dån nçi ®au
ë ®©u, giê anh ë ®©u?
Rõng xanh vÉn h¸t m·i c©u qu©n hµnh
Quª h­¬ng ®· hÕt chiÕn tranh
Anh kh«ng trë l¹i, mÑ anh ®· giµ
Nhµ anh vÉn m¸i nhµ tranh
Ng­êi yªu vÉn cø ®îi anh, ch­a chång
VÉn ngåi tùa cöa ngãng tr«ng
VÉn mong cã mét mïa ®«ng anh vÒ
VÉn chiÒu, vÉn s¸ng ®ång quª
T¶o tÇn vÊt v¶ ®i vÒ c« ®¬n
Gióp mÑ anh nh÷ng xím h«m
DÞu dµng hai nçi c« ®¬n th¸ng, ngµy
Ng«i nhµ t×nh nghÜa míi x©y
Bít ®i nh÷ng nçi v¬i ®Çy gian tru©n
Th«i th× ch­a hÕt nçi buån
Ýt nhiÒu bï l¹i mÊt cßn chiÕn tranh
Anh n»m nghØ l¹i rõng xanh
§Ó cho Tæ quèc yªn lµnh mïa xu©n.
                                                                                                NguyÔn V¨n Lai
                                                                       

Kh¸ch ®Õn ch¬i nhµ

                                      K×a em, kh¸ch ®Õn ch¬i nhµ
                             Nhïng nh»ng sao ch¼ng thÊy ra mêi trÇu
                                      Kh¨n má qu¹ chÝt ngang ®Çu
                             "YÕm ®µo mét d¶i b¾c cÇu" anh qua
                                      ¸o tø th©n, guèc méc cao
                             "§«i gß bång ®¶o" lµm nao lßng ng­­êi
                                      "Lóng liÕng lµ lóng liÕng ¬i !"
                             NgËp ngõng em ®Ó trÇu r¬i mÊt råi
                                      Em xinh em ®øng bªn t«i
                             MiÕng trÇu cay, nh¾n ®«i lêi g× ®©y?
                                      Ng­­êi ¬i, em göi c©u nµy
                             "Yªu nhau cëi ¸o b¾c cÇu" th¨m nhau
                                      Gi¸ ®õng cã nãn quai thao
                             Cã ®«i guèc méc, lôa ®µo buéc eo
                                      Th× anh ®©u ph¶i lÇn theo
                             T×m ng­­êi quan hä mµ theo em vÒ
                                      Anh lµ ng­­êi cña "ch©n quª"
                             "Ng­­êi ¬i, ng­­êi ë", ng­­êi vÒ lµm chi
                                      "Ra ngâ mµ tr«ng" th«i th×
                             "Cßn duyªn" em ®· véi ®i lÊy chång
                                      §Ó anh n¨m ngãng, m­­êi tr«ng
                             §Ó anh ngåi d­­íi c©y hång, gèc ®a
                                      B÷a nay kh¸ch ®Õn ch¬i nhµ
                             ChÝt kh¨n má qu¹ em ra mêi trÇu
                                                                            



GÆp ë nghÜa trang cao nguyªn


Mét chiÒu em ®Õn nghÜa trang
Nh÷ng ng«i mé xÕp th¼ng hµng bªn nhau
T×m Anh, Anh ®ang ë ®©u?
§äc hµng mé chÝ mµ ®au quÆn lßng
N¾ng chiÒu nhµn nh¹t mïa ®«ng
L¾t lay giã thæi hµng th«ng r× rµo
Khãi h­¬ng nghi ngót nao nao
NghÜa trang im lÆng nghÑn ngµo lÖ r¬i!
MÑ ¬i! con ®· tíi n¬i
T×m Anh m·i tËn ë n¬i cuèi trêi
NghÜa trang Anh nghØ ®©y råi!
Tªn Anh mé chÝ s¸ng ngêi ng«i sao
Bçng d­ng em khãc khi nµo
§«i dßng lÖ ch¶y em nµo cã hay?
Mét chiÒu em ®Õn n¬i ®©y
NÐn h­¬ng em th¾p, ®äng ®Çy t×nh th­¬ng
Mêi Anh vÒ víi quª h­¬ng
Cho lßng mÑ ®ì tæn th­¬ng Ýt nhiÒu!
                                                                                                NguyÔn V¨n Lai




vÒ h­u

Nhµ anh gÇn c¸nh ®ång xanh,
Cã khung cöa sæ m¸t lµnh giã tr­a
Vî anh mét n¾ng hai m­a
C¸c con anh lín vÉn ch­a viÖc lµm
Cßn anh ®êi lÝnh gian nan
Däc dµi biªn giíi, "lµm quan" vÉn nghÌo
VÒ h­u c¸t bôi b¸m theo
M¸i ®Çu tãc rông, nh¨n nheo cïng vÒ
ChiÒu chiÒu thong th¶ ®¹p xe
D¨m ba con ch÷, ai nghe ch¹nh lßng
Ngåi buån ®äc s¸ch mµ tr«ng
T×m ®iÒu nh©n ng·i cho lßng th¶nh th¬i
§êi ng­êi dµi ng¾n, ai ¬i!
QuyÒn cao, chøc träng mµ v¬i ©n t×nh
NgÉm m×nh l¹i bùc víi m×nh
Ng­îc xu«i vÊt v¶ bÊt b×nh lµm chi...
Ch¾t chiu phóc ®øc tõ bi
Mang lªn thê phËt bá ®i phÝ hoµi
"Lµm quan" mÊy chôc n¨m dµi
Th«i ®õng tr¨n trë thiÖt thßi ®¾ng cay
VÒ råi míi biÕt lµ may
Nh©n t×nh thÕ th¸i, ai hay mÆc ng­êi!
ë ®êi míi hiÓu vÒ ®êi
R»ng nay s­íng, khæ lµ trêi cho anh
TiÒn tµi danh väng qua nhanh
TÝch thiÖn, tÝch ®øc míi thµnh ch÷ t©m
MÑ cha mÆc ¸o ®ång lÇm
§Ó cho con ch¸u n©ng tÇm bay cao
VÒ h­u cuéc sèng thanh tao...!

SÔNG LÈN VÀ MẸ TÔI
Làng tôi ở cạnh sông Lèn
Nghiêng nghiêng mái rạ thân quen khói chiều
Bãi bờ bồi lắng phì nhiêu
Câu hò ngọt mát tình yêu đong đầy
Gió m­ưa, bão lụt bao ngày
Thân cò sơ xác hao gầy mẹ tôi
*
Dòng sông bên lở bên bồi
Bến Đình một thủa nơi tôi nhớ làng
Ra giêng ngày tháng xênh xang
Đồng xanh, lúa tốt, xóm làng nhàn tênh
Mẹ tôi quang gánh gập gềnh
Chợ Lèn hai buổi mẹ thành thánh nhân
Cho tôi học, cho tôi ăn
Cho tôi áo mặc, dạy răn nên ng­ười
*
Mẹ đi, tuổi ngoại bảy m­ươi
Chợ Lèn như­ thể vắng ng­ười bán mua
Tôi xa quê cả bốn mùa
Chân trời, góc bể,  bão m­ưa cũng đành
Dòng sông xanh, ­ước mơ xanh
Để dành gửi mẹ nay thành phiêu du
Thật thà chất phác nhân từ
Lời mẹ dạy vẫn còn nh­ư bên mình
Mẹ là giọt nắng bình minh
Là câu thơ nặng ân tình ru con
Đói nghèo, cay đắng, mất còn
Đ­ược thua, hơn thiệt, vuông tròn làm chi?
Làm ng­ười cốt cách nghĩ suy
Tiền tài danh vọng mà chi...thêm phiền?
*
Thỏng ngày nhớ nhớ quên quên
Chiều soi bóng mẹ, sông Lèn lăn tăn…
Nguyễn Văn Lai                   

SƠN TÂY

Tôi về vùng đất đá ong
Bấm tay tính đủ nỗi lòng nặng sâu
Người nơi đây, đất nơi đâu
Là em, là mẹ áo nâu bạc mầu
Xẻ chia tình nghĩa bấy lâu
Nhường cơm, bớt áo cho nhau đồng lần
Đá ong một thủa tương thân
Thó dài, mũi nhọn người thân hao gầy
Oằn mình kỳ cạch bấy nay
Tường cao, nhà rộng tự đây mà thành
Đất nghèo xưa mái nhà tranh
Chè xanh, mít mật nổi danh xứ Đoài
Lớn nhờ củ sắn, củ khoai
Gạo cơm của mẹ, hình hài của cha
Đói nghèo gắn kết chúng ta
Gian nan vất vả bài ca ân tình
Vuông tròn một khối xinh xinh
Một tình yêu, môt gia đình yên vui












BIỂN VÀ QUÊ HƯƠNG
Tết này anh đã trọn tuổi quân
Xa em thêm mấy bận trăng tròn
Giao thừa anh cùng cây súng thức
Giữ biển trời đất nước sang xuân

Nơi đảo xa vẫn sáng niềm tin
Biển mênh mông chân trời đã rạng
Hướng đất liền anh mang tình em
Sóng vỗ bài ca tình yêu bất diệt

Em ở quê hương đón xuân sôi nổi
Tuổi trẻ căng tràn sức sống thanh xuân
Anh biết quê ta đang nhiều thay đổi
Xuân đến từng nhà hối hả vui tươi

Tuổi trẻ chúng ta - mùa xuân đất nước
Khát vọng bay cao với nhiều mơ ước
Nhà máy, công trường, giảng đường ta bước
Anh và em sánh bước bên nhau

Nhưng hôm nay theo những con tầu
Anh đến đảo xa tuần tra giữ biển
Để đồng xanh thẳng cánh cò bay
Và những câu hò thắm đượm tình ta

Giữa biển xanh, mênh mang sóng vỗ
Nơi quê nhà em là bến đỗ
Của tầu anh lắng sóng xa khơi
Biển- quê hương em vẫn đợi chờ.


                                        



MẸ ĐÃ ĐI RỒI
Có một mùa hè
Như những mùa hè
Bình thường lặng lẽ
Trái tim tái tê
Nhận tin mẹ mất
Con không về kịp
Lửa đốt lòng con
Về với ngọn nguồn
Mẹ đi mãi mãi!

Nỗi đau nào ở trên đời
Bằng con mất mẹ ông trời thấu chăng?

Trời nắng chang chang
Cơn mưa bất chợt
Tim con lạnh buốt
Nước mắt cứa lòng

Đám tang đông lắm mẹ ơi!
Bà con lối xóm nhiều người đến thăm
Bố như bó đóm xắp tàn
Tiễn đưa mẹ-Bố hai hàng lệ rơi
Con về với mẹ, mẹ ơi!
Còn đâu thấy mẹ nấu nồi cơm khoai

Chị em sáu đứa đủ đầy
Bây giờ mất mẹ như bầy chim non
Đầy nhà đông đủ cháu con
Mẹ đi để lại muôn vàn tình thương        

Trái đất thì tròn
Con đường thì nhỏ
Đưa con trở về
Gập gềnh xóm nhỏ

Mẹ nằm ở đó
Hai hàng nến đỏ sáng soi
Trời ơi! mẹ đã ngủ rồi phải không?

Tháng năm cháy đỏ dòng sông
Còn đâu bóng mẹ lưng còng bên hiên
Còn đâu một thủa bình yên
Nhà ta vắng mẹ, chợ Lèn thưa hơn
Gió hè thổi cũng cô đơn
Lá dong, lá chuối héo buồn không tươi
Con chim khứu hót không lời
Cây hồng xiêm lá xanh tươi đâu rồi
Dàn thiên lý hoa úa sầu
Thiếu bàn tay mẹ, ái đâu hái dùm
Cay na lá rụng nhiều hơn
Mít không ra quả cây đơn lụi tàn

Mẹ ơi! trong lúc gian nan
Bố con xớm tối bần hàn có nhau
ít nhiều vợi bớt nỗi đau
Mẹ đi, thiếu mẹ con đâu hết buồn
                                                   Tháng 5 - 2006      

BẬC CẦU THANG
––––––

Leo thêm bậc cầu thang
Là thấy mình nhỏ lại
Đôi bàn chân khổ ải
Của ng­ười ở ngư­ời đi

Ai đó vấn v­ương chi
Chuyện thư­ờng ngày vẫn vậy
Dòng sông đời tuôn chảy
Để đôi bờ đam mê

Cõi lòng thấy u mê
Vì tâm tình giang dở
Làm sao không trăn trở
Đôi cánh cò tạt ngang

Chỉ một bậc cầu thang
Mà đa mang tình nghĩa
Một mối tình đơn lẻ
Nay sẻ đàn, gãy cây

Ta lại trở về đây
Của một thời vất vả
Đ­ược hôn lên thánh giá
Cảm ơn ngư­ời quăng dây

Dẫu bây giờ thang máy
Đ­ưa đôi ta lên mây
Nh­ưng em ơi sao vậy
Nhớ một thời đam mê

Bậc cầu thang cao thế
Càng bư­ớc càng xa ghê
Bao tháng ngày là vậy
Ta và em vụng về

Hỏi trời, trời cũng thế
Hỏi đất, đất không hay
Hỏi đời, đời ngoảnh mặt
Hỏi ngư­ời, ng­ười “thơ ngây”

Thôi ta hỏi con tim
Em dại khờ đến thế
Nặng thân mình máu đỏ
Dám lạc vào yêu đ­ương
Bậc cầu thang thân thư­ơng
Cao và dài đến vậy
Đợi chờ hoài chẳng thấy
Ng­ười với ng­ười nên duyên

Cho ta gửi lời khuyên
Cuộc tình ừ dâng hiến
Lòng ngư­ời rộng nh­ư biển
Chớ bao giờ mò kim

Cầu thang im không nói
Ta cũng vờ không hỏi
Em đau khổ buồn dầu
Ta ruột đau sát muối

Sơn Tây, 10/9/2009



VỀ THUẬN THÀNH

Về với Thuận Thành đất Luy Lâu
Thăm chùa Bút Tháp với chùa Dâu
Hỡi em cô gái vùng Kinh Bắc
Có đợi ta về đến bao lâu

Còn nhớ người xưa ở nơi đâu
Cô gái hái dâu vung bán nguyệt
Xênh xang quan họ níu chân người
Quân vương ngự lãm hương đồng nội
Nàng Yến bồi hồi cạnh gốc dâu

Ta về đây, em ở đâu
Còn duyên quan họ chửa qua cầu
Bâng khuâng ta tựa vào giải yếm
Guốc mộc cao nghiêng ngả mạn thuyền

Hội Lim vào mùa dã bạn
Thuận Thành hát khúc người ơi!
Con nhện giăng mùng người ở
Áo the, khăn xếp em nâng

Thiên Thai liền anh mỏi gối
Hội cờ trên bến Luy Lâu
Quai thao buộc vào nón thúng
Rùng rằng buông áo em ra

Người ơi, liền chị mời trầu
Ngọc ngà tha thướt lưng ong
Búp măng trao ta cánh phượng
Thẹn thùng e ấp mi cong


GỬI ĐI MỘT CHÚT VÔ TÌNH

Gửi đi một chút vô tình
Cho em cho cả chính mình bâng khuâng
Em là ngọn gió mong manh
Để anh là tia nắng xanh bất ngờ
Tuổi hồng em đẹp ngây thơ
Mắt huyền lơ đãng con đò sang sông
Tóc mây thon thả lưng ong
Hương bồ kết toả cho lòng ngẩn ngơ
Sân trường một gã trai khờ
Nhìn theo áo trắng quên giờ ra chơi
**
Chiều mùa đông ấy xa xôi
Có gã trai khờ ra trận
Rồi ngụp lăn bên chân trời phía Bắc
Giữa chập trùng viễn xứ biên cương
Giấc mơ về một giảng đường
Bàn chân trần chiến thuật
Tập bài hối hả Đồng Doi
Trái đất vẫn tròn
Rừng và biển xẻ chia nỗi nhớ
Để nỗi lòng dằng dặc tháng năm
Gió cô đơn giận dữ
Biển mênh mông sóng gào
Nước vẫn mặn
Như mồ hôi anh mặn
Thấm vào lòng đất mẹ thiêng liêng
Chắt chiu đổi cả cuộc đời
Ngàn sâu nghiệt ngã ở nơi vô thường
Gửi em một chút yêu thương
Tháng năm nếm trãi dọc đường chiến tranh
Anh về tìm lại chính anh
Hoá ra là gã trai lành ngô nghê.

2-2012



ẢO ẢNH

Tôi đi trong hy vọng
H­ướng về phía Đông
Đ­ường xe tấp nập mênh mông quá
Gió rét ập về
Lòng tái tê
Ng­ười ơi có biết
Nỗi cố gắng tột cùng
Hy vọng mong manh
Dòng ngư­ời hối hả
Trăn trở đăm chiêu
Trời nghiêng, mặt đất cũng nghiêng
Cỏ cây tím tái
Mặt ng­ười vụng dại
Cứ đi
Tiếng m­ưa thầm thì
Cố gắng
Gió lia ngang
Cứa buốt
Thịt da
Trời cứ m­ưa
Đi trong ngụp lặn
Giữa đời
Bên tôi
Dòng đời và bánh xe vẫn chạy
Chiều ấy
Một ngày
Giữa đông
Không hy vọng
N­ước mư­a
Xối xả
Lạnh tê ngư­ời
Về nhà
Mong manh
Một ngày tới
Tôi gặp em đây rồi
Trống trãi cô đơn
Hai tâm hồn xích lại
Như bài thơ đứt đoạn chép thêm vần
Tuổi bốn mư­ơi
Nghĩ và yêu là hai thế giới khác biệt
Khi đo lòng mình bằng chính con tim
Không thể nào tin
Em mạnh mẽ và tham lam quá
Tôi đam mê, ngây dại, khù khờ
Nên đã hết
Một tình yêu bốc lửa
Cháy càng to là chính lúc lụi tàn
Tình yêu khát là tình yêu xắp chết.
Tin đi em
Đừng ngây dại như­ anh
Nhìn phía trư­ớc
Vừng đông sẽ hửng sáng
Gió và mây
Khó che nổi mặt trời
Em là lửa
Của những tia nắng sớm
Hay là ly r­ượu rót tràn đầy
Anh chư­a uống
Mà thấy mình ngây ngất
Giữa đơn côi
Đỡ chống trải lạnh lùng
Em không thể
Là m­ưa hay là nắng
Cũng không là ly r­ượu giót tràn đầy
Em là cỏ, là hoa là mây gió
Là tình yêu ngự trị vĩnh hằng
Là cơn khát giữa tr­ưa hè oi ả
Anh đam mê ngửa cổ
Trút cơn thèm
Giữ sa mạc mêng mông
Không tin nổi
Hình bóng em
Trên cát bỏng
Tan dần
Và ảo ảnh
Lạnh tanh, trắng xoá
Một con ngư­ời
Không giống những con ngư­ời
Em là cát
Nỗi khát khao có n­ước
B­ước chân anh
Nghiêng ngửa
Giữa chiều
Em là nư­ớc
Giữa vô vàn tinh thể
Hiện phía xa
Nh­ưng biến mất đến gần
Sa mạc cát
Đâu dễ gì có được
Em chính là
ảo ảnh

Của đời anh !

Sách: Tình yêu sau phiên gác

Sách: Tình yêu sau phiên gác
CHIẾC  ỐNG  NHÒM  CHO  MƯỢN

          Vòng hành quân dã ngoại học về địa hình quân sự và công tác tham mưu của đơn vị, Nguyễn Văn Thường đã bước sang ngày thứ sáu. Xuất phát từ Công trường 50, tiểu đội của Thường đi qua xóm Bãi, xóm Chóng, qua Cao điểm 53 và dừng chân ở bản Gò Sống. Đây là một bản người Mường thuộc huyện Ba Vì (Hà Tây) nằm dưới chân núi Tản Viên. Tiểu đội của Thường nghỉ nhờ trong nhà một cô giáo trưởng làng còn rất trẻ. gia đình cô giáo chỉ có ba người, Mẹ, cô giáo và một cậu em trai khoảng mười bốn tuổi.
          Căn nhà sàn lợp ngói khá rộng đủ chỗ cho cả tiểu đội của Thường nghỉ ngơi và sinh hoạt, có nơi để ba lô, xoong chậu, mỗi người một khẩu súng, một la bàn và một ống nhòm phục vụ cho học tập, chủ yếu là tập cắt góc phương vị trên địa bàn vùng rừng núi. Việc bảo đảm an toàn cho vũ khí trang bị được cấp trên nhắc nhở, quán triệt đầy đủ, trong tiểu đội ai cũng ý thức được điều này, đặc biệt là đi học dã ngoại đường dài và đóng quân trong nhà dân.
          Ngay từ chiều đến nhà cô giáo Hoà, toàn tiểu đội đã tổ chức làm công tác dân vận giúp gia đình như : quét dọn xung quanh nhà, bổ củi, sắp xếp lại nơi ngủ nghỉ của tiểu đội… Ai cũng thấy vui vẻ và như trút được những mệt nhọc sau chặng đường hành quân dài ngày. Buổi tối hôm đó, sau khi trò chuyện làm quen, cô giáo Hoà nói chuyện với tiểu đội Thường, ban đầu cô giáo còn dè dặt, sau đó quen dần, thỉnh thoảng coco lại chen vào một vài câu hài hước, khoảng cách giữa chủ và khách cứ ngắn dần. Biết được nơi đây gần Ao Vua, một địa điểm du lịch nổi tiếng nên Thường hỏi cô giáo.
          - Cô giáo ơi! Nghe nói khu vực này gần Ao Vua, ở đó đẹp lắm phải không?
          - Đúng đấy anh ạ! Bây giờ ở đấy đẹp và vui lắm,  mùa du lịch người Hà Nội lên rất đông.
          - Thế à! Không hiểu chúng tôi có thời gian mà đi thăm Ao Vua được không? - Thường lại hỏi:
          Nếu được nghỉ, các anh đi thăm Ao Vua tắt qua hai quả đồi trước mặt cho gần. Vừa nói cô giáo vừa chỉ tay ra phía trước nhà trong khoảng trời tối mịt.
          Thế sao lại gọi là Ao Vua hả cô giáo? - Thường lại tiếp tục hỏi.
          - Chuyện dài lắm mà là truyền thuyết lịch sử đấy các anh ạ! Em sẽ kể các anh nghe.
          Cô giáo bắt đầu kể cho tiểu đội của Thường nghe truyền thuyết Ao Vua, giọng cô giống như đang giảng bài cho học sinh vậy.
          "Ngày xửa, ngày xưa vào thời Hùng Vương đất nước ta bị quân giặc xâm lược, Vua Hùng mang quân đi chiến đấu chống giặc nhưng thế giặc mạnh quá, nhà Vua không chống nổi, quan quân tan tác mỗi người một phương. đường cùng, nhà Vua phải bỏ kinh thành rút chạy cùng với một số ít tướng sĩ. Khi rút chạy từ Phong Châu (Phú Thọ) về đến bờ sông Đà, nhà Vua gặp một nhà Chiêm Tinh- Vua hỏi nhà Chiêm Tinh nọ :
          - Thần có thể cho ta biết liệu ta có lấy lại được đất nước này không? Hiện nay thành ta đã mất, quân ta đã tan, sức ta đã tàn, lương ta đã kiệt.
          - Thưa nhà Vua, bên kia sông Đà là núi Tản Viên, nhà Vua nên vượt qua sông mà sang núi đó. Từ đây đến núi Tản Viên cũng không xa, đi ngay bây giờ đến giờ Ngọ là có thể tới được. Giữa trưa nhà Vua đi qua đó nếu nghe tiếng gà sống gáy thì cơ đồ của nhà Vua chưa bị mất. Nếu không nghe tiếng gà sống gáy thì coi như sự nghiệp của nhà Vua đã hết.
          Nghe lời nhà Chiêm Tinh nói như vậy, nhà Vua cùng quân lính còn lại vượt sông Đà đến gần chân núi Tản Viên đi qua một gò đất thấp, quả nhiên nhà Vua nghe tiếng gà sống gáy giữa ban trưa. Tin lời nhà Chiêm Tinh, vua và quân lính vững tin lui vào núi Tản Viên lập căn cứ kháng chiến. Các tướng sĩ bị lưu lạc nghe tin Vua lánh nạn ở đây lần lượt tìm về. Quân tướng ngày một đông thêm, tại căn cứ dưới chân núi Tản, vua chú trọng luyện tập quân sĩ ngày đêm chuẩn bị cho cuộc chiến đấu giành lại đất nước. Ở vùng núi Ba Vì này, có một thác nước từ lưng chừng núi đổ xuống tạo thành một vực sâu, nước xanh ngăn ngắt, không khí mát dịu, nhà vua đặt đại bản doanh gần đó. Thường ngày vua vẫn dùng nước ở đây để ăn uống, sinh hoạt, tắm giặt…Sau này cuộc kháng chiến thành công, nhà Vua lấy lại được đất nước và ngự giá trở về Kinh đô. Từ đó về sau nhân dân vùng này vẫn thường gọi nơi Vua tắm là Ao Vua, còn gò đất mà nơi Vua đi qua đã nghe tiếng gà sống gáy sau này dân cư đến ở thì gọi là bản Gò Sống, Bản Gò Sống cũng là nơi có truyền thuyết lịch sử gắn với chiến công dựng nước và giữ nước. Cả Ao Vua nữa, nếu đến thăm mà không biết truyền thuyết về nó thì chưa thể cảm nhận được hết vẻ đẹp đặc sắc của nó phải không các anh?. Bởi vậy, Ao Vua bây giờ là nơi du lịch đầy thơ mộng, đông khách đến thăm. Người ta cho rằng được đến thăm Ao Vua đã là may mắn lắm rồi, nhưng đến Ao Vua và được tắm, được uống nước Ao Vua, được hưởng không khí mát mẻ nơi thần tiên ấy thì con người cảm thấy thanh thoát hơn, sẽ gặp nhiều may mắn hơn trong cuộc sống. Học tập ở trên này các anh nên tranh thủ đến thăm Ao Vua một lần".
          Cô giáo say sưa kể về Ao Vua với tiểu đội của Thường như một người hướng dẫn viên du lịch, làm cho mọi người rất thích thú, bởi ai cũng đã biết thêm nhiều điều mới lạ về Ao Vua. Riêng Thường thầm nghĩ "Bất cứ giá nào cũng phải đến thăm Ao Vua một lần". Nhưng rồi việc học tập luôn là nhiệm vụ không thể bỏ được, bởi một lần đi học dã ngoại như thế này là một lần đi vòng tổng hợp khép kín nên việc đến Ao Vua là khó thực hiện được.
          Thế rồi, vào buổi trưa hôm sau, khi một người đang cắm cúi làm bài tập chuẩn bị cho buổi chiều tập bài thực hành., Thường đã trốn ra khỏi nơi ôn bài và không quên mang theo chiếc ống nhòm, Thường tìm cậu em trai của cô giáo rut theo dẫn đường đến Ao Vua. Sơn (tên cậu bé) lại rủ thêm một người bạn cùng đi với Thường, cả ba người đi tắt qua những quả đồi đến một sườn núi nhìn xuống Ao Vua cách không xa khoảng 100 đến 300m, Thường thấy một vùng thiên nhiên thật là thơ mộng. Thác nước đổ xuống trắng xoá, phía dưới là Ao Vua nước xanh ngăn ngắt, xung quanh là vườn trầu nở đầy hoa trắng ngần, Thường bảo hai cậu bé dừng lại ở một lưng chừng đồi dưới gốc một cây trầu cũng rụng đầy hoa trắng. Hôm ấy ngày chủ nhật, khách đến tham Ao Vua rất đông, màu hoa hoà vào sắc áo làm Ao Vua như một bức thảm đẹp vô ngần. Quan sát bằng mắt thường đã thích, khi nhìn bằng ống nhòm lại càng thú vị hơn. Đang buổi ban trưa, từng lớp, từng tốt trai gái ngồi trên các tảng đá gần sát Ao Vua hoặc dưới những gốc cây rụng đầy hoa trắng. Họ ngắm cảnh, ăn uống, nói cười vui vẻ, trông nhộn nhịp, đông vui quá. Các cậu bé cứ đòi Thường trao ống nhòm cho xem thử và chúng tranh nhau nhìn ngắm Ao Vua, nét mặt chúng đầy những hoan hỉ như vừa mới khám phá ra những điều huyến bí của một thế giới thần tiên.
          Rất muón được đến tận nơi có dòng nước trong mát của Ao Vua, nhưng sắp đến giờ học buổi chiều, Thường phải quay về để học tập, Thường lấy ống nhòm mang về nhưng bọn trẻ cứ nài nỉ mãi:
          - Anh Thường! Anh cho chúng em mượn ống nhòm một lúc, tý nữa am cầm về trả anh ngay- Cậu Sơn thiết tha nói: Không được đâu các em!- Thường trả lời dứt khoát, anh phải mang về để học, hơn nữa sợ các em làm mất thì anh bị kỷ luật.
          - Anh đừng lo! tý nữa là em cầm về ngay thôi mà, anh ở trong nhà em chứ đi đâu mà sợ. Chúng em đang xem thích quá anh ạ. Ống nhòm của anh xem rõ quá.
          Ngẫm nghĩ một lát rồi Thường đồng ý và nói:
          - Thôi cũng được! nhưng tý nữa cầm ống nhòm về thì Sơn phải bí mật đưa cho anh nhé, đừng để cho ai biết mà rầy rà nghe chưa.
          Nói xong, Thường chạy vội vã, về đến nơi cúng là lúc đơn vị chuyển địa điểm học tập, không trú quân ở bản Gò Sống nữa. Thường vội vàng vào nhà khoác ba lô, súng và trang bị chào gia đình và cô giáo, rồi nhanh chóng chạy vào hàng quân mà lòng đầy lo lắng. ống nhòm của Thường cậu Sơn mượn vẫn chưa mang về, chiếc vỏ ống nhòm thường khoác bên hông nhẹ tênh mà lòng Thường nặng trĩu. Tiếng trung đội trưởng nhắc vang vang bên tai:
          - Trước khi hành quân đến địa điểm học tập mới, mỗi cá nhân kiểm tra lại vũ khí, trang bị. đơn vị ta rời khỏi đây là không quay lại nữa, học xong khoa mục "cắt góc phương vị" sẽ trở về doanh trại luôn.
          Lòng Thường như lửa đốt, biết làm sao được! báo cáo thì sợ bị khuyết điểm, mà không nói ra thì làm sao lấy được ống nhòm? Thường cứ im lặng, hòng nghĩ kế gì để lấy được ống nhòm thì tiểu đội trưởng đã kiểm tra đến trang bị của Thường. Anh phát hiện ra Thường chỉ còn đeo chiếc vỏ ống nhòm không. Khi hỏi ống nhòm đâu, Thường cứ quanh co nói dối là bị rơi trên đường hành quân hôm đến bản này. Khi tiểu đội trưởng bảo đi tìm thì Thường đành thú nhận là đã cho bọn trẻ con mượn đi chơi Ao Vua chưa về.
          Trung đội trưởng đành hoãn cuộc hành quân muộn hơn thời gian qui định để Thường quay lại cây trầu, nơi bọn trẻ giữ ống nhòm của Thường. Nhưng đến nơi bọn trẻ không còn ở đấy nữa. Tìm mãi xuống khu vực gần Ao Vua nơi đông người du lịch vẫn không thấy các em đâu.
          Khi ánh hoàng hôn buông xuống Ao Vua, Thường mới thấy chúng từ trên một cây to lá rậm đang tụt xuống, vì mải quan sát khách du lịch ra về nên chúng chẳng nhìn thấy Thường đi tìm. Thường lấy được ống nhòm, cùng hai đứa trẻ chạy vội về vị trí tập trung thì đơn vị đã hành quân từ lâu. Thường đang loanh quanh không biết xử trí ra sao thì Hoà- cô giáo trường làng, cô chủ gia đình đã đứng trước mặt Thường- Cô đưa cho Thường tờ giấy có những dòng chữ của trung đội trưởng gửi lại cho Thường, cô nói:
          - Đơn vị anh hành quân từ lâu, chờ mãi không thấy anh về, các anh ấy quay lại nhà em, kể cho em nghe một chuyện và nhờ em đưa lá thư này cho anh.
Thường đọc lá thư của trung đội trưởng, anh dặn rằng "nếu Thường lấy được ống nhòm thì từ vị trí tập trung ban đầu (thôn Gò Sống) có thể đia theo đường mòn, xác định trên bản đồ và thực địa để hành quân theo đơn vị. Cũng có thể cắt góc phương vị theo bài tập để hành quân. đúng giờ N trung đội sẽ đợi Thường tại toạ độ X. Chú ý đi theo đường mòn phải vận động khẩn trương vì quá giờ N trung đội tiếp tục hành quân đến địa điểm khác. Nếu Thường đi theo góc phương vị phải xác định thật chính xác vì phải vượt qua đồi núi, nếu không cẩn thận sẽ bị lạc…"
Thường đọc xong lá thư mà lòng vô cùng lo lắng, xen lẫn sự ân hận vì những hậu quả mà mình gây ra. Do đi tìm ống nhòm trở lại quá muộn, nếu hành quân theo góc phương vị đến toạ độ X đường sẽ ngắn hơn nhưng có thể bị lạc.
Cô giáo Hoà thấy Thường bối rối ra mặt cũng sốt ruột hỏi Thường:
- Bây giờ anh định về nhà em nghỉ, hay quyết định đi tìm đơn vị?
Anh phải đi ngay, nếu không theo kịp đơn vị thì gay go em ạ- Thường trả lời trong sự lúng túng. Sau đó Thường mở bản đồ tìm toạ độ X và thấy toạ độ X ở gần bản S, Thường vội hỏi Hoà:
- Em có biết đường tắt đi từ đây đến bản S không?
- Có chứ! đường từ đây sang bản S nếu theo đường mồn khoảng 8km, nếu đi tắt vượt đồi, rừng cchỉ khoảng 4km thôi anh ạ! Có việc em đi sang đó toàn đi theo đường tắt này thôi.
- Thôi nhé! Chào Hoà và Sơn, anh phải đi gấp cho kịp đơn vị.
Nói xong, Thường khoác ba lô, trang bị bước vội theo hướng đã xác định về bản S, nhưng Hoà và Sơn chạy theo nói:
- Để chúng em dẫn anh đi theo lói tắt, nếu không núi cao rừng rậm, trời tối anh sẽ bị lạc đấy. Khổ quá chỉ tại cậu Sơn nên anh phải vất vả đấy thôi.
Tuy cũng hơi ngại nhưng không còn cách nào khác nên Thường đành chấp nhận để Hoà và Sơn dẫn đường đi.
Như biết lỗi, Sơn lầm lũi đi trước mở đường, thì còn Thường và Hoà đi sau. đường rừng sứ dần dần khó đi, nhiều đoạn ba lô, trang bị của Thường bị cây rừng cản lại, có đoạn Hoà phải đưa tay kéo Thường lên mới vượt được những vách thụt của núi cản đường. Tay Thường nắm tay Hoà nóng hổi, Thường đã được cầm tay con gái lần nào đâu. Tự nhiên có một tình cảm lạ lùng xao động con tim làm Thường cứ muốn được nắm được nắm tay Hoà mãi trên con đường rừng gập ghềnh khúc khuỷu. Trong ánh hoàng hôn sắp tắt, thường ngước nhìn Hoà thấy hai bò má em ủng đỏ. Cú mỗi lần tay Thường chạm tay Hoà thì ánh mắt hai người vội bắt gặp nhau rồi lại vội quay đi. Chưa nói điều gì nhưng Thường hiểu lòng Hoà cũng có điều gì xao xuyến.
Đến bản S gần toạ độ X, Thường chia tay Hoà và Sơn, sau cái bắt tay nồng ấm là ánh mắt Hoà nhìn nửa như chờ đợi, nửa như thông cảm. NHìn thẳng vào mát Hoà, Thường vội nói:
- Tạm biệt các em! Rồi có ngày anh sẽ trở lại bản Gò Sống. Cảm ơn các em đã đưa anh tới đây.
Nói xong, Thường chạy vội về toạ độ X, khi Thường đến nơi đơn vị cũng sắp sửa lên đường tiếp tục hành quân chuẩn bị cho một bài tập mới. Mặc dù Thường cố quên đi tất cả để tập trung cho nội dung học tập nhưng kỷ niệm vui buồn về bản Gò Sống, về Hoà và Sơn cứ lẫn lộn không phai. Hình ảnh cô giáo trường làng cứ in đậm mãi trong Thường. Thường rất nhớ về tình cảm gia đình ấm cúng và một Ao Vua trong truyền thuyết mà Hoà đã kể cho Thường và tiểu đội nghe.
Đợt hành quân dã ngoại năm ấy, kết quả học tập của Thường không mấy mĩ mãn, cộng với cái án phê bình trước trung đội, khiến Thường thấy thấm thía mãi. chính vì vậy, mà năm học cuối Thường đã phải cố gắng trên tất cả các mặt để có kết quả khá khi ra trường, nhất là việc chấp hành kỷ luật và Thường tạm quên bản Gò Sống. Nhiều lần Thường muốn lên thăm, song phần vì thiếu thời gian, phần vì thiếu phương tiện nên ý định không thành. Thế rồi công việc ôn thi cuối khoá cứ chuốn hút Thường. Tình cảm với cô giáo đành phải gác lại một bên. Thường tự nhủ với lòng mình khi nào có thời cơ thuận lợi thì sẽ trở lại Gò Sống thăm cô giáo.
Sau khi ra trường và đã phát triển thành đại đội phó thuộc một Binh đoàn chủ lực đóng ở bên kia bờ sông Đà thì chính Sơn, cậu bé của bản Gò Sống năm xưa, nay đã là chiến sĩ mới của đại đội Thường. Gặp lại Sơn tự nhiên những kỷ niệm về bản Gò Sống, về Ao Vua và về Hoà - cô giáo trường làng lại trỗi dậy trong Thường.
Gặp lại nhau tâm sự, Sơn thật thà kể:
- Chị em vẫn dạy học ở bản, chị ấy nhắc đến anh Thường luôn, chị cứ trách anh sao chẳng thấy đến chơi.
Thường nghe Sơn kể mà lòng chộn rộn, nhứng ký ức ngày xưa lại bùng cháy, Thường hẹn với Sơn:
- Kết thúc khoa huấn luyện tân binh này, anh và Sơn sẽ về thăm lại bản Gò Sống.
- Vâng, mời anh về quê em chơi và đi thăm Ao Vua ạ! Ở đó bây giờ khác trước, đẹp và vui hơn nhiều anh ạ.
Một Sáng tháng năm, Thường cùng Sơn về Ba Vì, về thăm lại bản Gò Sống, thăm cô giáo trường làng. Gặp lại Hoà, Thường không dám vồ vập nhưng từ trong đáy lòng dường như có từng con sóng đang dồn nén đến cồn cào.
- Tưởng anh quên hẳn Ao Vua rồi, chắc tên làng này anh không còn nhớ nữa phải không?- Hoà nói với giọng dỗi hờn.
Không, không!- Thường vội trả lời- Ao Vua thì có thể quên, nhưng bản Gò Sống và người bản Gò Sống thì anh không thể quên được. Anh chỉ sợ nhất là em không nhận ra anh mà thôi. Em vẫn nhận ra anh, điều đó đã làm anh hạnh phúc rồi.
Bất giác Thường thấy má Hoà ửng đỏ như hôm nào, Thường nắm bàn tay em, chưa khi nào Thường thấy Hoà đẹp như thế.
Một ngày nán lại bản Gò Sống, Thường rủ Hoà đi thăm Ao Vua, nhưng thấy Hoà có vẻ còn đắn đo, Thường nói:
- Lần trước anh đi thăm Ao Vua bị mắc khuyết điểm bỏ đơn vị, bỏ việc học tập làm ảnh hưởng đến tập thể. Lần này được tự do đi thăm Ao Vua, lẽ nào lại buồn hơn trước. Anh muốn em cùng đi, em đã kể truyền thuyết về Ao Vua cho anh nghe nhưng để được chứng kiến cảnh đẹp Ao Vua thì anh muốn em là người hướng dẫn du lịch cho riêng anh.
Thế là Hoà vui vẻ nhận lời, hôm đó cũng vào ngày chủ nhật trong sự ồn ào náo nhiệt của nơi du lịch nổi tiếng, có một đôi trai gái sánh vai nhau đi đến Ao Vua. Một người là bộ đội còn người kia là cô giáo trường làng - đó chính là Thường và Hoà. Một ngày du lịch quả là quá ngắn ngủi khi có bạn gái ở bên. Vùng núi bóng tối ập đến nhanh nhưng hai người vẫn ngồi trên tảng đá tâm sự. Tình cảm tuy chưa thật đậm đà nhưng hiểu nhau cũng khá nhiều. Thường mạnh dạn ngỏ lời yêu Hoà, khiến Hoà vô cùng bối rối. Bất giác đoi bàn tay nhỏ nhắn của em nằm gọn trong đôi tay thô ráp của Thường và rồi tình yêu của đôi trai gái cũng đến, muộn màn đôi chút nhưng ẩn giấu bao kỷ niệm vui buồn.
Nguyễn Văn Lai




TRÊN ĐƯỜNG TRẢ PHÉP

                                                          Truyện ngắn

          Vì có thành tích trong Hội thao, nên tôi được cấp trên giải quyết cho về tranh thủ thăm quê. Chiều hôm ấy hết phép, tôi khoác ba lô ra ga lên tàu về đơn vị. Lần đầu tiên về thăm nhà. Trong gia đình ai cũng quý, lúc ra đi bố mẹ, anh chị gói ghém cho đủ thứ. Nào là mấy cân lạc, mấy bò gạo nếp, dăm quả dừa... và thế là chiếc ba lô 3 cóc của tôi đã căng tròn và nặng trĩu. Quần áo, tiền nong và ít quà của những gia đình đồng đội cùng quê và những lá thư tôi bỏ cả vào trong chiếc cặp da sách ở tay, trông cũng da dáng lắm. Chắc đồng đội tôi ở đơn vị đang chờ tôi lên để nhận quà và thư từ. Ra ga, chưa đến giờ tàu chạy, tôi còn đang thơ thẩn trong phòng đợi ngắm nhìn bảng giờ tầu thì bắt gặp ánh mắt của một cô gái trẻ ngồi ở hàng ghế gần đấy nhìn mình như có cảm tình. Bất giác tôi nhìn thẳng vào cô ta, một cô gái lạ, không quen biết, nhưng ánh mắt của cô thì như muốn làm quen. Một lúc sau cô ta tiến lại gần tôi và nói:
          - Anh đi tầu vào, hay tầu ra thế? Giọng cô có vẻ thân tình.
          - Tôi đi tầu ra.
          - Anh xuống ga nào?
          - Hà Nội ! Tôi trả lời
          Ôi thế thì may quá ! Em cũng đi Hà Nội, đến giờ bán vé rồi, nhờ anh mua hộ cho em một vé với, để ba lô đây em trông cho. Nói rồi cô gái đưa tiền cho tôi mua vé hộ. Số tiền cô đưa cho tôi nhiều hơn số tiền cần thiết để mua một vé đi Hà Nội. Vì không quen biết nên tôi nhận tiền mua vé hộ cô ta, nhưng không gửi ba lô nhờ cô trông hộ. Mua xong tôi trả lại tiền thừa và vé tầu cho cô gái, nhưng cô gái không cầm mà còn nhờ tôi cầm hộ cả tiền và vé.
          Khi tầu vào ga, chúng tôi lên cùng một toa, nhưng hai vé khác số ghế, cô gái có chỗ ngồi bên dãy số chẵn, còn chố tôi ngồi bên dãy số lẻ, cạnh tôi là một bác trung niên. Khi tàu chạy được một lúc, cô gái ban nãy sách chiếc túi du lịch có vẻ sang trọng tiến lại chỗ tôi ngồi và đề nghị với người ngồi cạnh tôi.
          - Bác ạ ! Hai anh em chúng cháu (cô gái chỉ vào tôi) cùng đi Hà Nội nhưng mua vé không cùng chỗ ngồi. Bác làm ơn đổi chỗ cho chúng cháu. Mời Bác sang ghế của cháu, nhường chỗ cho hai anh em cháu ngồi ghế này có được không ạ. Cô gái nói với một giọng lễ phép, đồng thời đưa đôi mắt sắc của cô liếc nhìn tôi một cách tình tứ và đầy vẻ thân tình. Tự nhiên tôi thấy như mình gặp vận may được một cô gái vừa đẹp, vừa xinh quan tâm đến tôi nhiều như vậy.
          - Xin Bác làm ơn đổi chỗ cho chúng cháu ! Tôi cũng vội lên tiếng đồng tình. Bác trung niên đồng ý, cô gái được đổi chỗ và ngồi gần tôi. Tôi cố ngồi thu lại để nhường chỗ rộng cho cô gái ngồi, chiếc cặp da tôi vẫn ôm trong lòng, bấy giờ tôi vội để lên gác cùng với chiếc ba lô đã được buộc chặt dây.
          Cô gái ngồi xuống cạnh tôi, mùi nước hoa thơm ngây ngất, cả tấm thân mới lạ của cô cũng ép sát bên tôi, làm cho tôi bối rối lạ thường. Từ nhỏ lớn lên đến bây giờ, tôi đã được gần cô gái nào đâu. Vì thế, tôi thấy trong người như có gì rạo rực, khó tả. Cô gái hỏi tôi đủ thứ chuyện, nào là chuyện đơn vị tôi đóng quân có nhiều phụ nữ không và tôi đã có người yêu chưa? Vừa nói, cô vừa ngồi sát vào tôi hơn, mùi da thịt con gái làm tôi như người mất hồn, lời nói và động tác của cô đối với tôi như một đôi vợ chồng mưới cưới. Lúc đầu tôi còn bối rối, sau đó quen dần tôi cũng huyên thuyên đủ chuyện không kém gì cô gái. Trời cứ tối dần, con tầu lao vào màn đêm mang theo niềm hưng phấn và choáng ngợp của tôi. Cứ thế tôi say chuyện, say tình mà trời đã khuya lúc nào chẳng rõ. Cô gái ngồi sát vào tôi hơn nữa, một tay cô choàng qua cổ tôi, tay kia đưa cho tôi điếu thuốc lá của cô và nói : “Anh hút thuốc đi và nếu mệt cứ dựa vào em mà ngủ, để em trông hành lý cho”. Tôi cầm điếu thuốc châm lửa hút, sau đó tôi cảm thấy buồn ngủ quá và cứ chìm dần vào giấc ngủ theo nhịp xập xình của con tầu trong đêm vắng.
          Gần sáng, khi tầu đến ga Hà Nội, tôi cũng vừa tỉnh dậy, thì ôi thôi, cô gái ngồi bên tôi không còn bên tôi nữa, chiếc cặp da của tôi cũng không cánh mà bay, chỉ còn lại chiếc ba lô nặng chịch với mấy quà dừa lũng lẵng. Tôi hốt hoảng đi tìm cô gái khi mà hành khách xuống tầu gần hết mà chẳng thấy cô đâu. Lúc này tôi mới biết tôi bị chính cô gái đẹp ấy lừa. Sờ vào tiền tôi để ở túi ngực cũng chẳng còn đồng nào, số tiền mà người thân cho tôi và tiền của gia đình bạn bè gửi cũng đều mất cả. Chỉ còn một ít tiền nhỏ mua vé thừa tôi để ở túi quần là chưa mất, may ra đủ tiền mua vé ô tô lên đơn vị. Tự nhiên tôi thấy ghét và sợ các cô gái đến thế.
          Trời chưa sáng rõ, ra khỏi ga tầu, tôi lững thững khoác ba lô đi trên đường phố mà lòng nặng trĩu. Phố xá còn vắng người qua lại, phía trước lại có một cô gái, bên vai cũng khoác một chiếc túi du lịch nhỏ đang chậm bước, thỉnh thoáng cô gái lại quay về phía sau và như muốn chờ đợi một ai. Tôi cố đi chậm hơn, để khỏi phải chạm gặp cô gái, nhưng cô gái cũng dường như cố đợi tôi lên. Buộc lòng tôi vẫn phải đi tiếp, thoáng nhìn, tôi thấy cô gái cũng đẹp và có vẻ thùy mỵ dễ tin hơn. Song tôi vẫn cảm thấy đáng ghét các cô gái quá chừng. Tôi chẳng muốn tiếp xúc với cô, mặc dù cùng trên một tuyến đường vắng người qua lại. Khi tôi đến gần và muốn vượt, bất chợt cô gái quay về phía tôi và hỏi:
          - Anh bộ đội ơi ! Anh có về bến xe Kim Mã cho em đi cùng với.
          - Tôi cũng đi bến xe Kim Mã đây. Sao cô không chờ xe bus hoặc bắt xe ôm mà đi, tại sao lại phải đi bộ. Thôi nhé cô cứ đứng đây mà chờ xe, tôi phải đi trước đây, đi bộ cô không theo kịp tôi đâu. Tôi nói với cô gái bằng một giọng thiếu cảm tình như vậy và tiếp tục rảo bước.
          - Đợi em cùng đi bộ với, tí nữa trời sáng rõ có xe bus thì chúng ta cùng đi xe anh nhé !
          - Cô đi một mình không được à? Đường phố chứ có phải rừng núi đâu mà sợ. Tôi xẵng giọng.
          - Nhưng mà gặp anh là bộ đội, em muốn đi cùng anh cho vui. Vừa nói cô vừa bước nhanh cho kịp tôi.
          Miễn cưỡng tôi cùng đi với cô gái. Tôi kín đáo liếc nhìn cô và phán đoán xem cô gái thuộc loại người nào. Gương mặt cô rất trẻ, và có vẻ rụt rè nhưng đầy tin tưởng, chắc là khi thấy có tôi đi bên cạnh.
          - Đến bến xe Kim Mã anh đi về đâu ? Cô gái hỏi.
          - Sơn Tây, tôi trả lời cộc lốc.
          - A ! thế thì tốt quá, em cũng lên Sơn Tây.
          Cô gái tiếp tục hỏi chuyện với một giọng ngây thơ và như muốn tìm hiểu, khám phá thêm nhiều về vùng đất lính ấy.
          - Em lên Sơn Tây thăm anh trai và có việc cần, nhưng chưa đi đến đó bao giờ, may quá có anh cùng đi và chỉ giúp cho, em xin cám ơn trước.
          - Lên đó thiếu gì bộ đội, em hỏi ai mà chả được. Thực tình tôi không thích nói chuyện với cô gái và muốn bứt ra khỏi cô, nhưng cô gái lại không muốn rời khỏi tôi. Đúng như mọi người thường nói “Con chim chết hụt sợ cành cong”, tâm trạng tôi lúc ấy là như vậy. Tôi sợ lại gặp phải một người như cô gái ở trên tầu. Vừa lúc đó, có một chiếc xe buss tuyến Kim Mã chạy đến và chào mời chúng tôi lên xe. Cô gái vội bảo : “Anh em mình lên xe đi cho nhanh anh ạ”. Ý nghĩ không tốt lại vụt đến với tôi: “Lần này thì phải cảnh giác  - tốt nhất là không nên gần các cô gái, khi mà mình không quen biết”, nên tôi lại xẵng giọng:
          - Cô cứ đi đi, tôi không đi đâu?
          Thực tình tôi không muốn đi cùng cô gái vì trong túi tiền đã hết, may chăng chỉ đủ tiền đi ô tô từ Kim Mã lên Sơn Tây mà thôi. Vì vậy, tôi từ chối rứt khoát.
          Cô gái vẫn cố tình năn nỉ:        
          - Lên xe đi anh, đi bộ đến bến xe chắc còn xa lắm. Mà anh thì đeo nặng thế kia, bao giờ mới tới được.
          Trên xe ô tô, anh phụ xe cũng đang mời tôi ráo riết và đưa tay kéo tuột tôi lên xe.
          - Ừ thì đi! Tôi chặc lưỡi và bước lên xe, ngồi vào ghế mà hai tay vẫn ôm khư khư chiếc ba lô trong lòng.
          Chiếc xe đưa chúng tôi tới bến Kim Mã, đang chờ mua vé để đi Sơn Tây chuyến đầu tiên, bỗng dưng tôi thấy bụng đau dữ dội, cơn đau mỗi lúc một tăng dần. Lúc đầu tôi không dám kêu, nhưng đau quá mặt tôi tái nhợt, bụng đau quằn quại, tôi đành phải kêu lên với cô gái: Anh đau bụng quá” và tôi gục đầu xuống ba lô thiêm thiếp.
          Cô gái nhanh nhẹn chạy tới một hiệu thuốc gần đó mua về cho tôi mấy viên thuốc chữa đau bụng.
          - Anh uống thuốc đi ! cô gái đưa cho tôi thuốc và cốc nước tự tay cô mua ở nhà hàng bên cạnh.
          Không biết là thuốc gì, nhưng vì đau quá tôi cứ uống bừa. Tôi nghĩ rằng cõ lẽ phải nằm lại bến xe mất thôi. Nhưng cô gái đã mua cả vé xe cho tôi và cô, sau đó cô khoác ba lô cho tôi và dìu tôi ra xe. Tuy đau nhưng tôi vẫn áy náy vô cùng vì tiền mua vé xe buss và vé xe ô tô chưa có để trả cho cô được. Khi xe chạy, cơn đau bụng của tôi vẫn không giảm và tôi ngủ thiếp đi lúc nào không rõ. Đến bến xe Sơn Tây, cô gái gọi, tôi mới giật mình tỉnh giấc người còn rất mệt và cứ tưởng chiếc ba lô của tôi chắc không còn nữa, nhưng nó và cô gái vẫn bên tôi. Tôi cùng cô gái xuống xe vào phòng đợt của bến xe ngồi nghỉ. Cơn đau bụng của tôi cũng đã giảm, có thể nghỉ ngơi một lúc rồi tự về đơn vị được. Cô gái chào tôi và nói sẽ đi tìm đến đơn vị nơi anh cô đóng quân. Nói rồi cô bước đi ngay, làm cho tôi không kịp cám ơn cô và trả tiền vé xe cho cô, chỉ còn lại hình ảnh đẹp của một thiếu nữ như em là vẫn in đậm mãi trong tôi, ấn tượng đó làm tôi vương vấn mãi.
           Gần trưa hôm ấy, tôi khỏi hẳn, rồi khoác ba lô trở về đơn vị đúng phép. Vừa đi tôi vừa thầm cảm ơn cô gái biết bao, trên đường trả phép của tôi vừa không may và cũng thật là may. Tôi cứ tự dầy vò mình, tại sao lại không hỏi tên em và em đến tìm anh trai của mình ở đơn vị nào? Biết đâu tôi có thể chỉ giúp cho cô, âu cũng là một dịp trả ơn cô gái.
          Chiều hôm ấy, sau khi nghỉ ngơi, tắm giặt sạch sẽ, tôi lên nhà Ban chỉ huy Đại đội báo cáo là tôi đã trả phép đúng hẹn.
          Vào đến cửa tôi hết sức ngỡ ngàng, cô gái cùng đi và giúp tôi đang ngồi trong phòng làm việc của Đại đội trưởng.
          - Chào Đại đội trưởng ạ ! - Chào cô... à chào em... Tôi đỏ mặt và ấp úng chào hai người.
          - Ơ anh đã khỏi đau bụng rồi hả ? Thế anh... anh cũng ở cùng đơn vị với anh Toàn của em à !
          - Vâng, vâng tôi là lính của Đại đội trưởng Toàn. Nhưng sao em lại ở đây. Thế mà.... thế mà.... anh đâu biết ? ....
          - Loanh quanh mãi em mới hỏi được đến đây, gớm Sơn Tây sao mà nhiều bộ đội thế ! Đúng là thủ đô của lính, người ta nói quả không sai tý nào.
          - Việt mới lên đấy à ! Vào đây uống nước, mình xin giới thiệu. Đây là Nhung, em gái tớ, cũng vừa từ dưới quê lên chơi lúc trưa. Vừa nói Đại đội trưởng vừa chỉ vào cô gái.
          - Vâng ! Chúng em biết nhau rồi anh Toàn ạ ! Cả hai chúng tôi đồng thanh nói.
          Sau đó, tôi kể lại toàn bộ những chuyện xảy ra trên đường trả phép của tôi cho Đại đội trưởng và Nhung nghe, anh cười ngặt nghẽo mà nét mặt thấy rất vui, giống như tâm trạng của tôi đến vậy. Còn Nhung thì em cười thật đẹp, em cũng rất vui khi biết được tôi đã có sự hiểu lầm “nghiêm trọng” về em.
          Trong những ngày Nhung ở lại đơn vị thăm anh trai, chúng tôi vẫn gặp nhau luôn, thường tâm sự với nhau nhiều điều, thỉnh thoảng Nhung cứ nhắc lại những chuyện buồn của tôi trên đường trả phép, đôi môi em lại thoáng nở cụ cười tươi và em giả vờ đấm nhẹ vào lưng tôi, làm người tôi rạo rực.
          Trở lại quê hương em thi đỗ đại học còn tôi cũng trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh vào trường sĩ quan quân đội. Mùa hè năm đó chúng tôi cùng nhập vào các trường đại học và cũng từ đây những lá thư mang nặng tình yêu đôi lứa chân thành như tình cảm của tôi và Nhung những ngày đầu mới gặp, được liên tục đến với nhau. Rồi sau đó, có sự giúp đỡ của anh Toàn, tình cảm của chúng tôi ngày càng thêm sâu nặng và không có gì chia sẻ được. Chúng tôi chỉ còn chờ ngày tốt nghiệp ra trường, để làm lễ kết tóc xe duyên.
          Thế mới biết được, lòng tin đừng để vội mất đi, mà phải biết tin vào con người, tin vào những tấm lòng nhân hậu và cao thượng của những con người dù là bình thường nhất. Chính ở đấy sẽ mang đến cho chúng ta những điều may mắn và hạnh phúc bất ngờ. Hãy tin vào con người và tin vào cuộc sống đang đổi mới từng ngày./.

                                                                   Nguyễn Văn Lai







KỶ  NIỆM  NHỎ  KHÓ  QUÊN

          Tôi sinh ra và lớn lên ở thành phố, có cuộc sống tương đối đầy đủ cả vật chất lẫn tinh thần. Tuổi thơ của tôi thật là dễ chịu, chưa bao giờ phải nếm mùi đói rét, gian khổ, khi gặp khó khăn tôi đều nhờ vào sự giúp đỡ của Bố Mẹ và người thân, với tôi cuộc sống cứ êm trôi, tương lai đầy hứa hẹn. Vì vậy, những suy nghĩ của tôi về cuộc sống cũng rất đơn giản, tôi có biết đâu cuộc đời giống như con sông trước khi hoà vào biển cả thì phải vượt qua nhiều thác ghềnh khúc khuỷu.
          Chỉ đến khi trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh quân sự vào Quân đội, được huấn luyện và công tác trong môi trường đầy tính kỷ luật, tôi mới thấu hiểu con người có rèn luyện thì mới trưởng thành. Những ngày đầu là dự bị sĩ quan, tôi ít quan tâm đến mọi người xung quanh, luôn khép mình trong chiếc giường cá nhân hoặc chỉ làm quen với những chàng lính quê phố xá, có Cha mẹ là công chức, làm cán bộ to mà thôi, đâu có biết rằng đồng đội còn nhiều gia đình nghèo lắm. Điều mà tôi mong mỏi nhất là huấn luyện càng ít càng tốt và nhanh chóng cho hết thời kỳ dự bị sĩ quan được nghỉ hè, nghỉ Tết hoặc chỉ ít là ngày chủ nhật xin phép đơn vị về thăm gia đình là điều thú vị nhất. gia đình tôi chưa phải là giàu nhưng cũng tương đối khá giả; Mẹ tôi là giáo viên của một trường cấp 3 có tiếng; Bố tôi là sĩ quan Quân đội công tác ở Bộ Chỉ huy quân sự thành phố. Bố, mẹ tôi sinh được hai chị em, tôi là út luôn được nuông chiều, tuy tôi không nghịch như quỷ sứ nhưng cũng là đứa trẻ khó bảo. Đôi khi tôi thấy mẹ rất buồn, trong ánh mắt của bà, tôi đọc được điều đó nhưng cho qua tất cả, bây giờ tôi càng nhận rõ hơn khi bước vào quân ngũ.
          Tôi nhập ngũ vào Trường sĩ quan Lục quân 1 dự khóa huấn luyện dự bị sĩ quan, mẹ tôi mừng lắm. Lúc lên đường, bà căn dặn: "Con đi cố gắng rèn luyện cho tốt, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ để trở thành người cán bộ sĩ quan quân đội con nhé, mười tám mười chín tuổi rồi còn gì". Lúc chia tay mẹ lên đường, tôi vẫn vô tư, nhưng bây giờ mới được hơn ba tháng huấn luyện tạo nguồn mà thấy nhớ nhà, nhớ thành phố quá, nhất là nhớ mẹ, suốt một đời mẹ tần tảo lo cho chị em chúng tôi ăn học. Tôi nhớ cả những buổi sinh hoạt khu phố, những lúc đi chơi với bạn bè quên cả thời gian, làm mẹ tôi lo đến phát khóc, cái tự do trong khuôn phép của gia đình sao mà dễ chịu đến thế.
          Đã hơn ba tháng huấn luyện rồi mà tôi chưa được về thăm nhà, nhiều khi tôi thấy nhớ nhà quá, nảy sinh ý định tìm cách để được về thăm nhà và thành phố. Tuy chỉ thoảng qua nhưng nó cứ lớn dần sau những buổi huấn luyện chiến thuật và điều lệnh dưới trời nắng gắt, cùng với sự tác động của những câu chuyện về kỷ niệm, những ngày sống ở thành phố của mấy đứa bạn cùng trung đội. Nhân ngày nghỉ cuối tuần, chúng tôi được phân công ra ngoài doanh trại mượn dụng cụ lao động và đã hoàn thành được nhiệm vụ. Thời gian còn lại trong ngày tương đối dài, trên đường quốc lộ dòng người và xe cộ qua lại tấp nập, thỉnh thoảng có một chuyến xe ca xuôi về thành phố. Bất chợt một ý nghĩ loé lên trong đầu, tôi vội nói với hai người bạn cùng đi:
          - Chúng mình vẫy xe về thành phố đi, chiều về doanh trại vẫn kịp.
          - Nhất trí !- Hai người bạn đồng thanh tán thưởng.
          Cả ba chúng tôi lên một chiếc xe khách xuôi về thành phố thuận lợi, hai tiếng sau ai cũng có mặt tại nhà mình. Về nhà gặp bố, mẹ và chị, gia đình mừng lắm, ai cũng khen tôi tuy có hơi đen một chút nhưng có phần rắn rỏi, đúng là một anh chàng bộ đội thực thụ rồi. Mẹ nhìn tôi bằng đôi mắt hiền từ nhân hậu, tôi đọc đượ trong đôi mắt của mẹ sự vui mừng pha trộn chút ưu tư, đắn đo gì đó. Mẹ nói với tôi:
          - Con đi tắm rửa đi, mẹ bật bình nóng lạnh rồi đấy, sau đó nằm nghỉ cho khoẻ, mẹ ra chợ một lát mua chút gì ăn.
          Một lúc sau, trên giỏ xe của mẹ có rất nhiều thức ăn mà tôi ưa thích. Lâu lắm rồi tôi mới được ăn một bữa cơm thât là đầm ấm và ngon miệng. Trong cơ quan có việc đột xuất nên ăm cơm xong bố tôi phải đi làm ngay, ông chẳng kịp hỏi tôi điều gì. Nhìn bố, tôi thấy ánh mắt bố vui vui, chắc rằng bố mừng lắm, vì thấy tôi trưởng thành. Ở nhà chỉ còn lại mẹ và chị, bằng tình cảm yêu thương và giọng nói ôn tồn, mẹ hỏi:
          - Con về được mấy hôm hả Nam?
          - Con về được hai hôm…À, một hôm mẹ ạ! – Tôi ấp úng trả lời.
          - Thế đơn vị cho con về có việc gì hay chỉ về chơi thăm nhà? – Giọng mẹ thật hiền từ mà tôi nghe như có sự nghi ngờ.
          - Không có việc gì đâu mẹ ạ!
          - Hình như chưa hết khoá huấn luyện sao lại được về?
          - Dạ…con…con…với hai bạn cùng về ạ! – Tôi luống cuống trả lời.
          Thái độ và giọng nói của tôi làm bà phần nào hiểu được sự có mặt của tôi ở nhà hôm nay.
          - Con nói thật với mẹ đi, đơn vị cho con về hay con tự bỏ về?
          - Dạ…dạ…đơn vị cho con về ạ. – Tôi vẫn còn giấu mẹ.
          - Con tự bỏ về à? – Giọng mẹ trở nên nghiêm khắc.
          - Dạ…dạ…con tự về ạ.
          Mẹ tôi im lặng không nói gì, tôi thấy bà rất buồn, bất giác bà nói với tôi:
          - Thôi con uống nước đi, nghỉ ngơi một lúc rồi mẹ con ta trở lại đơn vị.
          - Hay con ở nhà, sáng mai lên đơn vị sớm có được không mẹ?
          Mẹ tôi nghiêm khắc nhìn tôi, bà sẵng giọng:
          Ở nhà là thế nào?  Mẹ sẽ đưa con lên đơn vị ngay chiều nay.
          Chuyến xe chiều từ thành phố đưa tôi và mẹ trở về đơn vị. Đến nơi, ánh chiều đã tắt, bóng tối dần dần ập đến, tôi ngượng ngùng dẫn mẹ vào doanh trại nơi tôi huấn luyện. Tuy quãng đường đi bộ không xa nhưng trên gương mặt của bà đã lấm tấm mồ hôi. tôi thấy thương mẹ quá, vì tôi mà mẹ phải vất vả lo toan. Vào đến đơn vị đã đến giờ sinh hoạt tối, chỉ có mình đại đội trưởng ở nhà. Sau khi chúng tôi chào hỏi, anh mời mẹ tôi ngồi và nói:
          - Thưa bác! Chiều nay sau giờ ăn cơm tối, đơn vị kiểm tra quân số, chúng cháu biết 3 đồng chí Nam, Phương và Bình đi lao động về muộn, đơn vị đã tổ chức đi tìm nhưng không thấy và bàn sẽ gọi điện về gia đình. May quá, bác đã đưa em Nam lên đơn vị, đây là điều rất tốt. Tuy các em là những sĩ quan tương lai nhưng suy nghĩ vẫn còn bồng bột, cần phải có sự kết hợp giữa gia đình với đơn vị để giáo dục thì mới đạt kết quả tốt và chỉ có các em mới tự khẳng định được mình mà thôi.
          - Vâng, mong các anh bỏ qua những lỗi lầm của cháu mà rèn rũa các cháu nên người, ở nhà có Bố mẹ nhưng khi vào bộ đội thì trăm sự nhờ các anh. Về phía gia đình chúng tôi xin cố gắng làm hết trách nhiệm đối với em.
          Sau đó Bà và đại đội trưởng còn trao đổi nhiều vấn đề, trong đó xoay quanh về cuộc sống của học viên dự bị sĩ quan và đặc điểm tính chất của nhiệm vụ huấn luyện đối tượng này. Mẹ tôi nghe và tỏ ý rất thông cảm với điều kiện của đơn vị. Bà bày tỏ lòng biết ơn Quân đội đã và đang giáo dục, rèn luyện lớp thanh niên trẻ chúng tôi nên người. Vốn là nhà giáo dục, Mẹ tôi càng hiểu sâu sắc vị trí, vai trò, tác dụng của công tác giáo dục, uốn nắn con người như thế nào. Tôi chỉ biết ngồi nghe mà ân hận với việc làm dại dột của mình, may mà hậu quả xảy ra không lớn. Tuy thế sự việc này đã tác động mạnh mẽ tới tình cảm và nhận thức của tôi.
          Đại đội trưởng dẫn Mẹ tôi đi thăm nơi ăn, ở, sinh hoạt của đơn vị, xem xong Mẹ tôi hài lòng lắm. Đến giờ điểm danh, Bà theo đồng chí trực ban đến nhà khách của đơn vị nghỉ lại qua đêm. Còn tôi, đại đội trưởng trả về trung đội dự điểm danh quân số theo chế độ qui định, anh cũng không quên nhắc tôi làm bản tự kiểm điểm cá nhân, đơn vị sẽ sinh hoạt đóng góp phê bình sau. Tôi lầm lũi trở về trung đội, tuy có muộn thời gian so với qui định, song chưa phải là khuyết điểm trầm trọng nên tôi vẫn nhận được những ánh mắt cảm thông và độ lượng của trung đội trưởng và đồng đội. Tất nhiên, sau đó tôi vẫn phải kiểm điểm trước đơn vị.
          Mẹ tôi ở lại đơn vị chơi cho đến chiều hôm sau Bà mới đón xe trở về thành phố. Sau khi biết được cuộc sống ăn ở, sinh hoạt, rèn luyện của chúng tôi, trước khi chia tay đơn vị, Bà nói với tôi: "Lúc chưa lên Mẹ cứ tưởng con đi bộ đội học sĩ quan chắc là gian khổ, vất vả lắm, lên đây Mẹ mới hiểu được, tuy có vất vả gian khổ nhưng cuộc sống tập thể vui quá. Cái quí nhất là các con có tình cảm đồng đội và kỷ luật Quân đội, thế này thì Mẹ yên tâm rồi. Con ở lại cố gắng theo cho kịp bạn bè, đồng đội; đừng làm điều gì trái ngược nữa nghe chưa. Muốn làm gì cũng phải quy nghĩ thật kỹ, đừng để Bố mẹ phải buồn con nhé".
          Tiễn Mẹ ra về, tôi cố ghìm lòng mà nước mắt cứ trào ra lúc nào không biết, tôi chạy đến sà vào vòng tay Mẹ như mọt đứa trẻ. Hơn lúc nào hết tôi thương Mẹ quá, nhìn vào mắt Bà tôi đọc được tình thương của Mẹ và thấy mình còn bé nhỏ biết bao.
          Tôi cứ nghĩ rằng mỗi người lính chúng ta đều có Tổ quốc vĩ đại bao la, song ở mỗi người ai cũng có một người Mẹ hiền từ và nhân hậu. Mình phải sống phấn đấu học tập, rèn luyện trưởng thành để không phụ tấm lòng bao dung của Mẹ.
          Đây là kỷ niệm nhỏ khó quên của tôi khi đang là học viên dự bị sĩ quan. Tôi tự hứa với lòng mình sẽ giữ mãi kỷ niệm đầu đời này để khi trưởng thành kể lại cho chiến sĩ của mình nghe, bởi tôi đang học tập để trở thành người sĩ quan chỉ huy trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
       Nguyễn Văn Lai






GẶP LẠI NGƯỜI HỌC VIÊN CŨ
          Minh là giáo viên của Trường sĩ quan Lục quân 1, đi thực tế ở một Trung đoàn chủ lực thuộc quân khu phía Bắc và được điều về Tiểu đoàn 6. Sau khi được Tiểu đoàn trưởng giao nhiệm vụ. Mình được phân công về Đại đội 5 làm Đại đội phó quân sự. Khi bắt tay tiễn Minh xuống đại đội, Tiểu đoàn trưởng nói:
          Đồng chí về Đại đội 5 làm cấp phó, ở đó có đại đội trưởng là đồng chí Bùi Ngọc Giới- thượng uý, một đại đội trưởng trẻ mới được bổ nhiệm, có gì các đồng chí sẽ trao đổi với nhau sao cho công việc hoàn thành tốt nhé.
          Minh vui vẻ khoác ba lô về Đại đội 5, vừa đi Minh vừa hình dung ra những công việc mà mình phải làm sắp tới, khi nhận chức đại đội phó. Minh nghĩ, rồi sẽ vất vả và phức tạp lắm đây, không biết đại đội trưởng là người thế nào và công việc liệu có suôn sẻ như mong muốn không ?- Là giáo viên ở trường sĩ quan chưa qua thực tế ở đơn vị cơ sở, tất nhiên sẽ có những hạn chế đến chất lượng công tác. Lần này có điều kiện đi thực tế mình phải tích cực học tập ở đơn vị cơ sở những kinh nghiệm quản lý, chỉ huy đơn vị và sẵn sàng chiến đấu để khi về Trường bổ sung vào bài giảng cho sát với đối tượng đào tạo và yêu cầu nhiệm vụ giảng dạy. Đây là một nhiệm vụ quan trọng mà Minh cần phải hoàn thành thật tốt trong đợt đi thực tế này. Vừa đi, vừa suy nghĩ như vậy nên Minh đến nhà Ban chỉ huy Đại đội 5 lúc nào không biết. Vì đã nhận được điện của Tiểu đoàn là có Minh về thực tế tại đơn vị, nên đón Minh ở cổng là đồng chí phó đại đội trưởng chính trị, anh cũng còn trẻ lắm. Khi vào phòng làm việc thì thật không ngờ Bùi Ngọc Giới chạy ra bắt tay Minh rất chặt rồi hồ hởi nói:
          - A! Trung đội trưởng, anh lên đây lúc nào mà em không biết.
          Đồng chí phó đại đội trưởng chính trị giới thiệu :
          - Đây là anh Bùi Ngọc Giới - đại đội trưởng, còn đây là anh Đỗ Đức Minh, giáo viên của Trường Sĩ quan Lục quân 1 về thực tế ở đại đội ta.
          - Vâng, vâng! Chúng tôi biết nhau rồi. Xin giới thiệu với anh Thuận, đây là anh Minh trước là trung đội trưởng của tôi hồi còn học Trường Sĩ quan Lục quân 1. Giới vừa nói vừa chỉ vào Minh và giới thiệu với đồng chí phó đại đội trưởng chính trị như vậy.
          Sau khi ngồi vào bàn uống nước, Minh đưa giấy giới thiệu của Tiểu đoàn và nói với hai người:
          - Minh được điều về Đại đội 5 này làm cấp phó cho Giới, may quá lại gặp người quen cũ, mình chắc là công việc sẽ tốt đẹp phải không?
          - Thật không ngờ anh Minh a! Khi nhận được điện của Tiểu đoàn em cứ tưởng là anh Minh nào. Thôi thế thì tốt quá rồi. Trước kia ở Trường anh đã giúp em nhiều mới có sự trưởng thành như ngày nay. Bây giờ lại được anh giúp cho, chắc em sẽ hoàn thành tốt chức trách đại đội trưởng mới mẻ này anh nhỉ?.
          - Minh cũng phải nhờ vào Giới giúp đỡ đấy! Có lẽ chúng ta cùng giúp nhau trong công việc để hoàn thành nhiệm vụ thì tốt quá phải không? Minh nói với Giới như vậy.
*
*     *
          Ngày ấy, Minh là trung đội trưởng, còn Bùi Ngọc Giới là học viên của trung đội do Minh quản lý, chỉ huy. Mơi ra trường nên Minh chỉ huy trung đội đúng "bài bản" như vừa được học. Giới là học sinh phổ thông thi vào Trường Sĩ quan, là con trai thanh phố cảng. Giới học tập có phần chểnh mảng, đặc biệt là chấp hành kỷ luật không nghiêm lắm. Vì vậy nhiều lúc làm Minh phải bực mình và cáu gắt. Giới vốn thông minh và linh hoạt, học tập cậu ấy tiếp thu rất nhanh bài giảng, song lại ngại rèn luyện kỷ luật và thực hành luyện tập. Minh nắm bắt được điều ấy ở cậu ta, do vậy Minh hay để ý đến Giới và có ý sẽ giúp cậu ta phấn đấu học tập, rèn luyện cho tốt để theo kịp với bạn bè, đồng chí. Tuy thế, nhưng do không hiểu được ý định tốt của nhau; vì vậy, trong học tập, sinh hoạt và rèn luyện Giới đối với Minh "bằng mặt không bằng lòng".
          Có lần Minh đi kiểm tra học viên trong giờ "tắt đèn đi ngủ" nghe tiếng Giới nói với những người bên cạnh, Minh đứng lại nghe hết được câu chuyện.
          - Gớm cái môn Chiến thuật tổng hợp thật là phức tạp, bài học đã khó lại còn phải lăn, lê, bò, trườn, nhất là nằm mà đào công sự dưới làn hoả lực địch nữa chứ, bẩn hết cả quần áo, đau hết cả người. Ngày mai đến phần luyện tập tớ phải tránh bằng được cái món đào công sự ấy. Sau này tốt nghiệp là sĩ quan mình có phải đào đâu mà sợ.
          Minh nghe được những điều ấy và cảm thấy không vừa long, Minh thầm nghĩ trong buổi học ngày mai mình đích thân chỉ huy tiểu đội của Giới luyện tập phần đào công sự dưới lầm hoả lực địch.
          Ngày hôm sau, Minh sử ra tình huống tập đi tập lại nhiều lần cho đến khi cả tiểu đội, nhất là đối với Giới thành thục động tác mới thôi. Nhìn chung học viên trong tiểu đội không phấn khởi lắm. riêng Giới phản ứng ra mặt nhưng không dám là gì, chỉ thì thầm nói nhỏ với nhau: "Ông Minh, ông ấy ghét tiểu đội mình nên ông ấy rèn mạnh quá nhất là đối với cậu Giới, ông ấy ghét nhất cậu đấy".
          Một lần khác, khi đơn vị tổ chức phát quân trang cho học viên buổi sáng thì đến tối Giới cùng với một vài người nữa mang số quân trang vừa phát ra quán bán uống ruợu. Do đã đoán được điều đó nên Minh đã bắt được, số quân trang đó MInh không cho bán và bắt mang về đơn vị để các cậu ấy sử dụng cho sinh hoạt và học tập. Nhưng vì họ đã chót lấy tiền trước uống ruợu rồi nên Minh phải xuống tài chính đơn vị ứng phụ cấp của Giới và mấy người kia trả nợ cho chủ quán. Cũng từ vụ này, Giới lại càng tỏ ra khó chịu và phản ứng ra mặt với Minh. Nhưng Minh vẫn nghiêm khắc quản lý, chỉ huy đơn vị hoàn thành tốt các nhiệm vụ, tuy rằng cũng có đôi chút máy móc của Nhà trường chính qui.
          Cuối năm đó, trong đợt đóng góp phê bình đảng viên trước quần chúng. Minh là người mà được các bản phê bình của học viên nói đến nhiều nhất. Nào là rèn luyện quá sức học viên, nào là máy móc rập khuôn, tuy rằng bản chất là tốt nhưng chỉ huy thì cứng nhắc, v.v…
          Rất may mắn, Minh được cấp trên điều đi học giáo viên và cũng từ đây Minh rút ra được nhiều bài học. Mùa hè năm ấy học viên ra trường. Bùi Ngọc Giới thì tốt nghiệp quốc gia đạt kết quả cao, cả hai môn thi đều đạt điểm giỏi và được phong quân hàm sĩ quan cấp trung uý.
*
*     *
          Bây giờ, Đỗ Đức Minh- thượng uý về làm đại đội phó, còn Bùi Ngọc Giới – Thượng uý là đại đội trưởng của Đại đội 5 này.
          - Anh Minh ạ ! Em rất phấn khởi được gặp lại anh, em ân hận quá, không biết thời gian có làm cho anh hiểu được em không? Bây giờ em mới thấm thía những ngày học tập ở Trường, em không hiểu anh nên em chia tay anh không một lời chào từ biệt.
          Giới xúc động nói với Minh như vậy, rồi cậu kể: Lần ấy thi tốt nghiệp quốc gia em gặp phiếu thi đúng câu hỏi chiến thuật tổng hợp có phần đào công sự dưới làn hoả lực địch, bởi có luyện tập thành thục nên em thực hành tốt và được điểm giỏi. Ra trường em là một trong số ít học viên được phong quân hàm trung uý. Đến bây giờ là cán bộ quản lý, chỉ huy bộ đội em mới biết được những khuyết điểm của chiến sĩ nếu không được quan tâm nhắc nhở, uốn nắn thì sẽ tai hại biết chừng nào, cũng như những vất vả, gian khổ của người trung đội trưởng. Có sâu sát gần gũi với chiến sĩ thì mới biết được những khuyết điểm của họ để có biện pháp quản lý và giáo dục. Em đã học được ở anh điều ấy, hôm nay em đã trở thành đại đội trưởng. Thế mà…, giọng Giới trùng xuống- thế mà… ngày ấy chúng em nghĩ sai về anh, chúng em phê bình anh nhiều quá, làm đơn gửi cấp trên nữa chứ. Cái sự không công bằng là thế đấy, đôi khi người tốt, cứ bị hiểu sai và phải chịu thiệt thòi mãi. Nếu như cấp trên không sáng suốt, không có con mắt nhìn xa trông rộng thì… Anh uống nước đi…, hôm nay chúng em phải tổ chức bữa liên hoan thân mật đón anh thật vui vẻ và chân thành như tấm lòng biết ơn của chúng em vậy. Rồi đây, có sự giúp đỡ của anh, em tin chắc rằng Đại đội 5 của chúng ta sẽ là đơn vị vững mạnh toàn diện và em sẽ hoàn thành tốt chức trách đại đội trưởng của em. Anh lúc nào cũng là người anh, người thầy giáo của em…
          Minh cầm chén nước đưa lên môi mà lòng không khỏi xúc động. Bùi Ngọc Giới – người học viên của trung đội do Minh quản lý năm xưa, ngày nay đã là một đại đội trưởng trẻ tuổi và cứng cáp như thế này chăng ? Những ngày thực tế ở trung đoàn. Minh được chứng kiến những việc làm của Giới trong công tác chỉ huy, quản lý đơn vị. Minh càng thấy rõ ở Giới có năng lực thực sự của người cán bộ quân sự. đúng là qua quá trình học tập, rèn luyện trong Nhà trường cùng với thực tế hoạt động tại các đơn vị cơ sở sẽ tạo nên cho người sĩ quan tác phong quân sự chững chặc. Tất nhiên chỉ có Giới mới tự khẳng định được mình mà thôi, từ những bài học không mấy dễ dãi ở nhà trường cộng với sự cố gắng nỗ lực của bản thân, anh đã trưởng thành. quá trình công tác anh vẫn thường tâm sự với mọi người. Kiến thức học trong Nhà trường là rất quí, nó là điều kiện, là cơ sở để cho người cán bộ làm việc, nhưng nó cũng sẽ mai một đi theo năm tháng, nếu người sĩ quan không tự rèn luyện mình thì sẽ bị tụt hậu, có bay cao, bay xa được hay không thì mỗi người phải có sự cố gắng vượt bậc. Tuy nhiên, tất cả phải bắt nguồn từ cái gốc, đó là những năm tháng chập chững vào đời, những bài học đầu tiên trong Nhà trường sĩ quan, dù vật vả, gian khổ nhưng nó là hành trang quí báu của người cán bộ quân sự. Cái may mắn của chúng ta là được học tập tại Trường Sĩ quan Lục quân 1. đây là điều kiện thuận lợi nhất để phấn đấu vươn lên.
          Minh cứ tưởng rằng nhiệm vụ đi thực tế của mình rồi sẽ khó khăn, thế mà bước đầu lại mở ra một cách tốt đẹp như vậy. Từ đây, MInh luôn nghĩ rằng chỉ có vì công việc, vì đồng đội cùng với tình người, tình đồng chí đồng đội và sự nhiệt tình sẽ là "mẹ" của mọi thành công. Đừng bao giờ sợ một cái gì khi mà mình thương yêu nó, hết lòng vì nó, nhất là con người.
                                                                                    Nguyễn Văn Lai
CHIẾC  ỐNG  NHÒM  CHO  MƯỢN

          Vòng hành quân dã ngoại học về địa hình quân sự và công tác tham mưu của đơn vị, Nguyễn Văn Thường đã bước sang ngày thứ sáu. Xuất phát từ Công trường 50, tiểu đội của Thường đi qua xóm Bãi, xóm Chóng, qua Cao điểm 53 và dừng chân ở bản Gò Sống. Đây là một bản người Mường thuộc huyện Ba Vì (Hà Tây) nằm dưới chân núi Tản Viên. Tiểu đội của Thường nghỉ nhờ trong nhà một cô giáo trưởng làng còn rất trẻ. gia đình cô giáo chỉ có ba người, Mẹ, cô giáo và một cậu em trai khoảng mười bốn tuổi.
          Căn nhà sàn lợp ngói khá rộng đủ chỗ cho cả tiểu đội của Thường nghỉ ngơi và sinh hoạt, có nơi để ba lô, xoong chậu, mỗi người một khẩu súng, một la bàn và một ống nhòm phục vụ cho học tập, chủ yếu là tập cắt góc phương vị trên địa bàn vùng rừng núi. Việc bảo đảm an toàn cho vũ khí trang bị được cấp trên nhắc nhở, quán triệt đầy đủ, trong tiểu đội ai cũng ý thức được điều này, đặc biệt là đi học dã ngoại đường dài và đóng quân trong nhà dân.
          Ngay từ chiều đến nhà cô giáo Hoà, toàn tiểu đội đã tổ chức làm công tác dân vận giúp gia đình như : quét dọn xung quanh nhà, bổ củi, sắp xếp lại nơi ngủ nghỉ của tiểu đội… Ai cũng thấy vui vẻ và như trút được những mệt nhọc sau chặng đường hành quân dài ngày. Buổi tối hôm đó, sau khi trò chuyện làm quen, cô giáo Hoà nói chuyện với tiểu đội Thường, ban đầu cô giáo còn dè dặt, sau đó quen dần, thỉnh thoảng coco lại chen vào một vài câu hài hước, khoảng cách giữa chủ và khách cứ ngắn dần. Biết được nơi đây gần Ao Vua, một địa điểm du lịch nổi tiếng nên Thường hỏi cô giáo.
          - Cô giáo ơi! Nghe nói khu vực này gần Ao Vua, ở đó đẹp lắm phải không?
          - Đúng đấy anh ạ! Bây giờ ở đấy đẹp và vui lắm,  mùa du lịch người Hà Nội lên rất đông.
          - Thế à! Không hiểu chúng tôi có thời gian mà đi thăm Ao Vua được không? - Thường lại hỏi:
          Nếu được nghỉ, các anh đi thăm Ao Vua tắt qua hai quả đồi trước mặt cho gần. Vừa nói cô giáo vừa chỉ tay ra phía trước nhà trong khoảng trời tối mịt.
          Thế sao lại gọi là Ao Vua hả cô giáo? - Thường lại tiếp tục hỏi.
          - Chuyện dài lắm mà là truyền thuyết lịch sử đấy các anh ạ! Em sẽ kể các anh nghe.
          Cô giáo bắt đầu kể cho tiểu đội của Thường nghe truyền thuyết Ao Vua, giọng cô giống như đang giảng bài cho học sinh vậy.
          "Ngày xửa, ngày xưa vào thời Hùng Vương đất nước ta bị quân giặc xâm lược, Vua Hùng mang quân đi chiến đấu chống giặc nhưng thế giặc mạnh quá, nhà Vua không chống nổi, quan quân tan tác mỗi người một phương. đường cùng, nhà Vua phải bỏ kinh thành rút chạy cùng với một số ít tướng sĩ. Khi rút chạy từ Phong Châu (Phú Thọ) về đến bờ sông Đà, nhà Vua gặp một nhà Chiêm Tinh- Vua hỏi nhà Chiêm Tinh nọ :
          - Thần có thể cho ta biết liệu ta có lấy lại được đất nước này không? Hiện nay thành ta đã mất, quân ta đã tan, sức ta đã tàn, lương ta đã kiệt.
          - Thưa nhà Vua, bên kia sông Đà là núi Tản Viên, nhà Vua nên vượt qua sông mà sang núi đó. Từ đây đến núi Tản Viên cũng không xa, đi ngay bây giờ đến giờ Ngọ là có thể tới được. Giữa trưa nhà Vua đi qua đó nếu nghe tiếng gà sống gáy thì cơ đồ của nhà Vua chưa bị mất. Nếu không nghe tiếng gà sống gáy thì coi như sự nghiệp của nhà Vua đã hết.
          Nghe lời nhà Chiêm Tinh nói như vậy, nhà Vua cùng quân lính còn lại vượt sông Đà đến gần chân núi Tản Viên đi qua một gò đất thấp, quả nhiên nhà Vua nghe tiếng gà sống gáy giữa ban trưa. Tin lời nhà Chiêm Tinh, vua và quân lính vững tin lui vào núi Tản Viên lập căn cứ kháng chiến. Các tướng sĩ bị lưu lạc nghe tin Vua lánh nạn ở đây lần lượt tìm về. Quân tướng ngày một đông thêm, tại căn cứ dưới chân núi Tản, vua chú trọng luyện tập quân sĩ ngày đêm chuẩn bị cho cuộc chiến đấu giành lại đất nước. Ở vùng núi Ba Vì này, có một thác nước từ lưng chừng núi đổ xuống tạo thành một vực sâu, nước xanh ngăn ngắt, không khí mát dịu, nhà vua đặt đại bản doanh gần đó. Thường ngày vua vẫn dùng nước ở đây để ăn uống, sinh hoạt, tắm giặt…Sau này cuộc kháng chiến thành công, nhà Vua lấy lại được đất nước và ngự giá trở về Kinh đô. Từ đó về sau nhân dân vùng này vẫn thường gọi nơi Vua tắm là Ao Vua, còn gò đất mà nơi Vua đi qua đã nghe tiếng gà sống gáy sau này dân cư đến ở thì gọi là bản Gò Sống, Bản Gò Sống cũng là nơi có truyền thuyết lịch sử gắn với chiến công dựng nước và giữ nước. Cả Ao Vua nữa, nếu đến thăm mà không biết truyền thuyết về nó thì chưa thể cảm nhận được hết vẻ đẹp đặc sắc của nó phải không các anh?. Bởi vậy, Ao Vua bây giờ là nơi du lịch đầy thơ mộng, đông khách đến thăm. Người ta cho rằng được đến thăm Ao Vua đã là may mắn lắm rồi, nhưng đến Ao Vua và được tắm, được uống nước Ao Vua, được hưởng không khí mát mẻ nơi thần tiên ấy thì con người cảm thấy thanh thoát hơn, sẽ gặp nhiều may mắn hơn trong cuộc sống. Học tập ở trên này các anh nên tranh thủ đến thăm Ao Vua một lần".
          Cô giáo say sưa kể về Ao Vua với tiểu đội của Thường như một người hướng dẫn viên du lịch, làm cho mọi người rất thích thú, bởi ai cũng đã biết thêm nhiều điều mới lạ về Ao Vua. Riêng Thường thầm nghĩ "Bất cứ giá nào cũng phải đến thăm Ao Vua một lần". Nhưng rồi việc học tập luôn là nhiệm vụ không thể bỏ được, bởi một lần đi học dã ngoại như thế này là một lần đi vòng tổng hợp khép kín nên việc đến Ao Vua là khó thực hiện được.
          Thế rồi, vào buổi trưa hôm sau, khi một người đang cắm cúi làm bài tập chuẩn bị cho buổi chiều tập bài thực hành., Thường đã trốn ra khỏi nơi ôn bài và không quên mang theo chiếc ống nhòm, Thường tìm cậu em trai của cô giáo rut theo dẫn đường đến Ao Vua. Sơn (tên cậu bé) lại rủ thêm một người bạn cùng đi với Thường, cả ba người đi tắt qua những quả đồi đến một sườn núi nhìn xuống Ao Vua cách không xa khoảng 100 đến 300m, Thường thấy một vùng thiên nhiên thật là thơ mộng. Thác nước đổ xuống trắng xoá, phía dưới là Ao Vua nước xanh ngăn ngắt, xung quanh là vườn trầu nở đầy hoa trắng ngần, Thường bảo hai cậu bé dừng lại ở một lưng chừng đồi dưới gốc một cây trầu cũng rụng đầy hoa trắng. Hôm ấy ngày chủ nhật, khách đến tham Ao Vua rất đông, màu hoa hoà vào sắc áo làm Ao Vua như một bức thảm đẹp vô ngần. Quan sát bằng mắt thường đã thích, khi nhìn bằng ống nhòm lại càng thú vị hơn. Đang buổi ban trưa, từng lớp, từng tốt trai gái ngồi trên các tảng đá gần sát Ao Vua hoặc dưới những gốc cây rụng đầy hoa trắng. Họ ngắm cảnh, ăn uống, nói cười vui vẻ, trông nhộn nhịp, đông vui quá. Các cậu bé cứ đòi Thường trao ống nhòm cho xem thử và chúng tranh nhau nhìn ngắm Ao Vua, nét mặt chúng đầy những hoan hỉ như vừa mới khám phá ra những điều huyến bí của một thế giới thần tiên.
          Rất muón được đến tận nơi có dòng nước trong mát của Ao Vua, nhưng sắp đến giờ học buổi chiều, Thường phải quay về để học tập, Thường lấy ống nhòm mang về nhưng bọn trẻ cứ nài nỉ mãi:
          - Anh Thường! Anh cho chúng em mượn ống nhòm một lúc, tý nữa am cầm về trả anh ngay- Cậu Sơn thiết tha nói: Không được đâu các em!- Thường trả lời dứt khoát, anh phải mang về để học, hơn nữa sợ các em làm mất thì anh bị kỷ luật.
          - Anh đừng lo! tý nữa là em cầm về ngay thôi mà, anh ở trong nhà em chứ đi đâu mà sợ. Chúng em đang xem thích quá anh ạ. Ống nhòm của anh xem rõ quá.
          Ngẫm nghĩ một lát rồi Thường đồng ý và nói:
          - Thôi cũng được! nhưng tý nữa cầm ống nhòm về thì Sơn phải bí mật đưa cho anh nhé, đừng để cho ai biết mà rầy rà nghe chưa.
          Nói xong, Thường chạy vội vã, về đến nơi cúng là lúc đơn vị chuyển địa điểm học tập, không trú quân ở bản Gò Sống nữa. Thường vội vàng vào nhà khoác ba lô, súng và trang bị chào gia đình và cô giáo, rồi nhanh chóng chạy vào hàng quân mà lòng đầy lo lắng. ống nhòm của Thường cậu Sơn mượn vẫn chưa mang về, chiếc vỏ ống nhòm thường khoác bên hông nhẹ tênh mà lòng Thường nặng trĩu. Tiếng trung đội trưởng nhắc vang vang bên tai:
          - Trước khi hành quân đến địa điểm học tập mới, mỗi cá nhân kiểm tra lại vũ khí, trang bị. đơn vị ta rời khỏi đây là không quay lại nữa, học xong khoa mục "cắt góc phương vị" sẽ trở về doanh trại luôn.
          Lòng Thường như lửa đốt, biết làm sao được! báo cáo thì sợ bị khuyết điểm, mà không nói ra thì làm sao lấy được ống nhòm? Thường cứ im lặng, hòng nghĩ kế gì để lấy được ống nhòm thì tiểu đội trưởng đã kiểm tra đến trang bị của Thường. Anh phát hiện ra Thường chỉ còn đeo chiếc vỏ ống nhòm không. Khi hỏi ống nhòm đâu, Thường cứ quanh co nói dối là bị rơi trên đường hành quân hôm đến bản này. Khi tiểu đội trưởng bảo đi tìm thì Thường đành thú nhận là đã cho bọn trẻ con mượn đi chơi Ao Vua chưa về.
          Trung đội trưởng đành hoãn cuộc hành quân muộn hơn thời gian qui định để Thường quay lại cây trầu, nơi bọn trẻ giữ ống nhòm của Thường. Nhưng đến nơi bọn trẻ không còn ở đấy nữa. Tìm mãi xuống khu vực gần Ao Vua nơi đông người du lịch vẫn không thấy các em đâu.
          Khi ánh hoàng hôn buông xuống Ao Vua, Thường mới thấy chúng từ trên một cây to lá rậm đang tụt xuống, vì mải quan sát khách du lịch ra về nên chúng chẳng nhìn thấy Thường đi tìm. Thường lấy được ống nhòm, cùng hai đứa trẻ chạy vội về vị trí tập trung thì đơn vị đã hành quân từ lâu. Thường đang loanh quanh không biết xử trí ra sao thì Hoà- cô giáo trường làng, cô chủ gia đình đã đứng trước mặt Thường- Cô đưa cho Thường tờ giấy có những dòng chữ của trung đội trưởng gửi lại cho Thường, cô nói:
          - Đơn vị anh hành quân từ lâu, chờ mãi không thấy anh về, các anh ấy quay lại nhà em, kể cho em nghe một chuyện và nhờ em đưa lá thư này cho anh.
Thường đọc lá thư của trung đội trưởng, anh dặn rằng "nếu Thường lấy được ống nhòm thì từ vị trí tập trung ban đầu (thôn Gò Sống) có thể đia theo đường mòn, xác định trên bản đồ và thực địa để hành quân theo đơn vị. Cũng có thể cắt góc phương vị theo bài tập để hành quân. đúng giờ N trung đội sẽ đợi Thường tại toạ độ X. Chú ý đi theo đường mòn phải vận động khẩn trương vì quá giờ N trung đội tiếp tục hành quân đến địa điểm khác. Nếu Thường đi theo góc phương vị phải xác định thật chính xác vì phải vượt qua đồi núi, nếu không cẩn thận sẽ bị lạc…"
Thường đọc xong lá thư mà lòng vô cùng lo lắng, xen lẫn sự ân hận vì những hậu quả mà mình gây ra. Do đi tìm ống nhòm trở lại quá muộn, nếu hành quân theo góc phương vị đến toạ độ X đường sẽ ngắn hơn nhưng có thể bị lạc.
Cô giáo Hoà thấy Thường bối rối ra mặt cũng sốt ruột hỏi Thường:
- Bây giờ anh định về nhà em nghỉ, hay quyết định đi tìm đơn vị?
Anh phải đi ngay, nếu không theo kịp đơn vị thì gay go em ạ- Thường trả lời trong sự lúng túng. Sau đó Thường mở bản đồ tìm toạ độ X và thấy toạ độ X ở gần bản S, Thường vội hỏi Hoà:
- Em có biết đường tắt đi từ đây đến bản S không?
- Có chứ! đường từ đây sang bản S nếu theo đường mồn khoảng 8km, nếu đi tắt vượt đồi, rừng cchỉ khoảng 4km thôi anh ạ! Có việc em đi sang đó toàn đi theo đường tắt này thôi.
- Thôi nhé! Chào Hoà và Sơn, anh phải đi gấp cho kịp đơn vị.
Nói xong, Thường khoác ba lô, trang bị bước vội theo hướng đã xác định về bản S, nhưng Hoà và Sơn chạy theo nói:
- Để chúng em dẫn anh đi theo lói tắt, nếu không núi cao rừng rậm, trời tối anh sẽ bị lạc đấy. Khổ quá chỉ tại cậu Sơn nên anh phải vất vả đấy thôi.
Tuy cũng hơi ngại nhưng không còn cách nào khác nên Thường đành chấp nhận để Hoà và Sơn dẫn đường đi.
Như biết lỗi, Sơn lầm lũi đi trước mở đường, thì còn Thường và Hoà đi sau. đường rừng sứ dần dần khó đi, nhiều đoạn ba lô, trang bị của Thường bị cây rừng cản lại, có đoạn Hoà phải đưa tay kéo Thường lên mới vượt được những vách thụt của núi cản đường. Tay Thường nắm tay Hoà nóng hổi, Thường đã được cầm tay con gái lần nào đâu. Tự nhiên có một tình cảm lạ lùng xao động con tim làm Thường cứ muốn được nắm được nắm tay Hoà mãi trên con đường rừng gập ghềnh khúc khuỷu. Trong ánh hoàng hôn sắp tắt, thường ngước nhìn Hoà thấy hai bò má em ủng đỏ. Cú mỗi lần tay Thường chạm tay Hoà thì ánh mắt hai người vội bắt gặp nhau rồi lại vội quay đi. Chưa nói điều gì nhưng Thường hiểu lòng Hoà cũng có điều gì xao xuyến.
Đến bản S gần toạ độ X, Thường chia tay Hoà và Sơn, sau cái bắt tay nồng ấm là ánh mắt Hoà nhìn nửa như chờ đợi, nửa như thông cảm. NHìn thẳng vào mát Hoà, Thường vội nói:
- Tạm biệt các em! Rồi có ngày anh sẽ trở lại bản Gò Sống. Cảm ơn các em đã đưa anh tới đây.
Nói xong, Thường chạy vội về toạ độ X, khi Thường đến nơi đơn vị cũng sắp sửa lên đường tiếp tục hành quân chuẩn bị cho một bài tập mới. Mặc dù Thường cố quên đi tất cả để tập trung cho nội dung học tập nhưng kỷ niệm vui buồn về bản Gò Sống, về Hoà và Sơn cứ lẫn lộn không phai. Hình ảnh cô giáo trường làng cứ in đậm mãi trong Thường. Thường rất nhớ về tình cảm gia đình ấm cúng và một Ao Vua trong truyền thuyết mà Hoà đã kể cho Thường và tiểu đội nghe.
Đợt hành quân dã ngoại năm ấy, kết quả học tập của Thường không mấy mĩ mãn, cộng với cái án phê bình trước trung đội, khiến Thường thấy thấm thía mãi. chính vì vậy, mà năm học cuối Thường đã phải cố gắng trên tất cả các mặt để có kết quả khá khi ra trường, nhất là việc chấp hành kỷ luật và Thường tạm quên bản Gò Sống. Nhiều lần Thường muốn lên thăm, song phần vì thiếu thời gian, phần vì thiếu phương tiện nên ý định không thành. Thế rồi công việc ôn thi cuối khoá cứ chuốn hút Thường. Tình cảm với cô giáo đành phải gác lại một bên. Thường tự nhủ với lòng mình khi nào có thời cơ thuận lợi thì sẽ trở lại Gò Sống thăm cô giáo.
Sau khi ra trường và đã phát triển thành đại đội phó thuộc một Binh đoàn chủ lực đóng ở bên kia bờ sông Đà thì chính Sơn, cậu bé của bản Gò Sống năm xưa, nay đã là chiến sĩ mới của đại đội Thường. Gặp lại Sơn tự nhiên những kỷ niệm về bản Gò Sống, về Ao Vua và về Hoà - cô giáo trường làng lại trỗi dậy trong Thường.
Gặp lại nhau tâm sự, Sơn thật thà kể:
- Chị em vẫn dạy học ở bản, chị ấy nhắc đến anh Thường luôn, chị cứ trách anh sao chẳng thấy đến chơi.
Thường nghe Sơn kể mà lòng chộn rộn, nhứng ký ức ngày xưa lại bùng cháy, Thường hẹn với Sơn:
- Kết thúc khoa huấn luyện tân binh này, anh và Sơn sẽ về thăm lại bản Gò Sống.
- Vâng, mời anh về quê em chơi và đi thăm Ao Vua ạ! Ở đó bây giờ khác trước, đẹp và vui hơn nhiều anh ạ.
Một Sáng tháng năm, Thường cùng Sơn về Ba Vì, về thăm lại bản Gò Sống, thăm cô giáo trường làng. Gặp lại Hoà, Thường không dám vồ vập nhưng từ trong đáy lòng dường như có từng con sóng đang dồn nén đến cồn cào.
- Tưởng anh quên hẳn Ao Vua rồi, chắc tên làng này anh không còn nhớ nữa phải không?- Hoà nói với giọng dỗi hờn.
Không, không!- Thường vội trả lời- Ao Vua thì có thể quên, nhưng bản Gò Sống và người bản Gò Sống thì anh không thể quên được. Anh chỉ sợ nhất là em không nhận ra anh mà thôi. Em vẫn nhận ra anh, điều đó đã làm anh hạnh phúc rồi.
Bất giác Thường thấy má Hoà ửng đỏ như hôm nào, Thường nắm bàn tay em, chưa khi nào Thường thấy Hoà đẹp như thế.
Một ngày nán lại bản Gò Sống, Thường rủ Hoà đi thăm Ao Vua, nhưng thấy Hoà có vẻ còn đắn đo, Thường nói:
- Lần trước anh đi thăm Ao Vua bị mắc khuyết điểm bỏ đơn vị, bỏ việc học tập làm ảnh hưởng đến tập thể. Lần này được tự do đi thăm Ao Vua, lẽ nào lại buồn hơn trước. Anh muốn em cùng đi, em đã kể truyền thuyết về Ao Vua cho anh nghe nhưng để được chứng kiến cảnh đẹp Ao Vua thì anh muốn em là người hướng dẫn du lịch cho riêng anh.
Thế là Hoà vui vẻ nhận lời, hôm đó cũng vào ngày chủ nhật trong sự ồn ào náo nhiệt của nơi du lịch nổi tiếng, có một đôi trai gái sánh vai nhau đi đến Ao Vua. Một người là bộ đội còn người kia là cô giáo trường làng - đó chính là Thường và Hoà. Một ngày du lịch quả là quá ngắn ngủi khi có bạn gái ở bên. Vùng núi bóng tối ập đến nhanh nhưng hai người vẫn ngồi trên tảng đá tâm sự. Tình cảm tuy chưa thật đậm đà nhưng hiểu nhau cũng khá nhiều. Thường mạnh dạn ngỏ lời yêu Hoà, khiến Hoà vô cùng bối rối. Bất giác đoi bàn tay nhỏ nhắn của em nằm gọn trong đôi tay thô ráp của Thường và rồi tình yêu của đôi trai gái cũng đến, muộn màn đôi chút nhưng ẩn giấu bao kỷ niệm vui buồn.
Nguyễn Văn Lai



NHỮNG  QUẢ  BỘC  PHÁ  CHƯA  NỔ

          Hợp là sĩ quan mới ra trường nên trong huấn luyện Hợp mới chỉ đảm nhiệm làm trợ giáo hoặc phụ trách quân xanh phục vụ cho luyện tập. Hôm ấy, Hợp được giao nhiệm vụ cùng với đồng chí đại uý Phạm Văn Quang- đại đội trưởng đảm nhiệm huấn luyện bài "Đại đội pháo binh trong chiến đấu tiến công" có sử dụng thuốc nổ tượng trưng cho điểm nổ của đạn để sửa bắn. Bài giảng được tiến hành trôi chảy, thu hút sự chú ý của chiến sĩ trên thao trường.
          Đại đội pháo binh 1 có nhiệm vụ hiệp đồng với Trung đoàn bộ binh 2 đảm nhiệm tiến công trên hướng chủ yếu… Giai đoạn đánh chiếm tiền duyên, đại đội dùng hoả lực bắn chuẩn bị 30 phút vào các điểm cao 203, 102…Sau đó chuyển làn bắn vào tung thâm địch ở đồi Đá, đồi Nghĩa Địa…
          Anh Quang sau khi lên lớp lý thuyết bước vào phổ biến nhiệm vụ cho đại đội và triển khai trận địa luyện tập, chỉ vị trí đài quan sát, nơi bố trí quân xanh. Chiến sĩ các khẩu đội nhanh chóng chạy đến các vị trí pháo của mình để luyện tập. Hợp được phân công duy trì một khẩu đội tập bài theo tình huống chiến thuật kết hợp với kỹ thuật bắn pháo. Huấn luyện bắn pháo nhưng thực chất là "bắn khan". Lấy phần tử bắn vào các mục tiêu trên các điểm cao như đã được giao nhiệm vụ, sau đó tập sửa bắn, cơ động và thiết kế trận địa. Không khí học tập rất sôi động, mỗi người một việc, Hợp đã thể hiện vai trò trợ giáo của mình rất có hiệu quả. Hợp ra những tình huống phụ chỉ cho chiến sĩ cách xử trí hợp lý, thao tác nhanh nhạy. Là cán bộ mới ra trường nên Hợp kiểm tra tỷ mỷ, sát sao mọi động tác và hành động của chiến sĩ. Buổi học được tiến hành một cách tốt đẹp, báo hiệu ngày huấn luyện thành công.
          Sau khi nghỉ giải lao giữa giờ xong, đơn vị chuyển sang giai đoạn tập tổng hợp. Hợp lại được phân công phụ trách quân xanh. Nhiệm vụ của bộ phận quân xanh hôm nay là đánh thuốc nổ tượng trưng cho điểm nổ của pháo bắn, phục vụ cho các khẩu đội pháo tập sửa bắn và xử trí các tình huống theo đầu bài tập.
          Hợp cùng với hai chiến sĩ phục vụ quân xanh là Hoà và Thạch đến khu vực điểm cao 203, 102 để bố trí bài thuốc nổ. Sau khi tra lắp bộc phá và bố trí xong, cả ba người cầm cờ đuôi nheo đánh dấu 2 bài thuốc nổ, mỗi bài thuốc nổ gồm 20 quả, mỗi quả 0,5 ki-lô-gam và mọi người ở tư thế sẵn sàng chờ tín hiệu hợp đồng để phát hoả. Tin tưởng vào hai chiến sĩ nên Hợp không kiểm tra lại những quả bộc phá mà hai chiến sĩ Hoà Và Thạch tra lắp, bố trí. Hợp đi quan sát xung quanh điểm cao một vòng sau đó quay về chờ lệnh cho hai chiến sĩ giật bộc phá nổ.
          - Mời anh Hợp hút thuốc với chúng em – Hoà vừa nói, vừa đưa cho Hợp điếu thuốc lá.
          Cả ba người ngồi quán hút thuốc lá đợi tín hiệu hợp đồng giật bộc phá.
          - Hôm nay đánh bộc phá tương đối nhiều anh Hợp nhỉ. Mà bộc phá có trọng lượng lớn, quả to nữa chứ. Khi giật chắc nổ to phải biết – Thạch và Hoà nói với Hợp như vậy.
          - Ừ, bộc phá nổ trên cạn nghe to lắm, có thể mới giống tiếng đạn pháo 105 ly bắn chứ- Hợp trả lời có vẻ mãn nguyện.
          Chừng 5 phút sau, một phát tín hiệu đỏ bay vút lên, thấy đúng với tín hiệu hiệp đồng. Hợp ra lệnh cho Hoà và Thạch điểm hoả. Những quả bộc phá nổ vang, bụi đất mịt mù. Chắc rằng các chiến sĩ ở trận địa nhìn rõ điểm nổ lắm đấy. Hợp nghĩ như vậy.
          Mấy quả bộc phá cuối cùng Hoà và Thạch có điểm hoả nhưng không nổ. Hợp không hiểu lý do gì, lúc này cũng là lúc hết thời gian pháo bắn chuẩn bị.
          - Còn 3 quả chưa nổ phải không? Để gọn lại, cuối buổi tập sẽ hủy, hai đồng chí khẩn trương di chuyển sang vị trí bãi thuốc nổ số 2 – Hợp nói với hai chiến sĩ.
          Đến bãi thuốc nổ số 2 tại Cao điểm 102, Hoà và thạc nối dây chờ lệnh phát hoả nổ bộc phá. Từ phía trận địa bắn lại xuất hiện hai phát tín hiệu đỏ bắn lên, theo hiệp đồng là giai đoạn pháo chuyển làm bắn về phía sau. Hợp ra lệnh cho Hoà và Thạch điểm hoả, nhưng quả bộc phá lại nổ rền vang. Nhưng oái oăm thay, 2 quả cuối cùng lại cũng nằm im không nhúc nhích. Kết thúc buổi luyện tập, Hoà và Thạch thu dọn bộc phá thừa về, tất cả là 5 quả chưa nổ. Hợp nói với hai chiến sĩ:
          - Nhiệm vụ của chúng ta đến đây đã hoàn thành, các đồng chí thu toàn bộ trang bị về đơn vị. Số bộc phá chưa nổ còn nhiều, thôi chúng ta không huỷ nữa mà mang về trả vào kho đơn vị.
          Hoà và Thạch nhanh nhẹn thu dọn trang bị gọn gàng, sẵn sàng rút khỏi điểm cao. Nhưng hai người vẫn còn chần chừ và đến gần Hợp nói:
          - Mời anh hút thuốc! Số bộc phá còn lại xin anh cho chúng em để chúng em làm bữa cá tươi anh nhé.
          - Không được đâu, dùng không đúng nguyên tắc nguy hiểm lắm, mang tất cả về nộp vào kho quân khí tiểu đoàn- Hợp trả lời dứt khoát.
          - Không việc gì đâu anh Hợp ạ! Chúng em không làm ảnh hưởng đến anh đâu mà sợ.
          - Không được! – Hợp kiên quyết trả lời.
          - Anh Hợp ơi, vật chất tiêu hao ấy mà, đã ra ngoài kho để phục vụ cho huấn luyện coi như là sử dụng hết. Những lần tập trước nếu thừa các anh cán bộ đều cho huỷ hết nhưng hủy mãi thì phí quá anh ạ. Lần này bộc phá còn thừa nhiều anh cho chúng em, chúng em thử thả xuống suối xem có được con cá nào không?- Hoà tha thiết đề nghị.
          Thạch mạnh dạn thêm vào:
          - Nếu được cá thế nào chúng em cũng để dành anh Hợp con to nhất đấy.
          Nghe hai chiến sĩ tán dương như vậy. Hợp lưỡng lự và nói:
          - Để mình hỏi ý kiến anh Quang - đại đội trưởng xem đã.
          - Thôi không phải hỏi nữa đâu anh Hợp ạ! Khi đã giao nhiệm vụ cho anh thì anh phải được toàn quyền quyết định chứ. Với lại anh Quang có biết là còn bộc phá chưa nổ đâu mà anh phải hỏi.
          Hợp còn đang do dự thì hai chiến sĩ phục vụ tấn công tiếp.
          - Anh là cán bộ phụ trách quân xanh thì mọi vật chất huấn luyện phục vụ tập bài anh phải được toàn quyền sử dụng chứ, chúng em phục vụ nhiều các anh cán bộ trước chúng em biết mà. anh không phải lo gì cả. Không bao giờ chúng em làm ảnh hưởng đến anh đâu.
          Thế là Hợp miễn cưỡng đồng ý, mặc dù trong lòng vẫn áy náy không yên.
          Chiều hôm ấy về đơn vị, nhận được tin bất ngờ làm Hợp choáng váng cả người. Hai chiến sĩ Hoà và Thạch bị bảo vệ của một Công ty thủy sản gần nơi luyện của đơn vị Hợp bắt và giữ lại, gọi điện báo cho đơn vị biết rằng hai quân nhân trên dùng thuốc nổ đánh cá vào vùng hồ nuôi cá của họ. Nghiêm trọng hơn là một trong hai chiến sĩ đánh cá hiện đang phải nằm cấp cứu tại bệnh xá của cơ quan thủy sản, đề nghị đơn vị Hợp đến nhận người và đưa nạn nhân đi cấp cứu ở bệnh viện quân đội.
          Chuyện vỡ lở ra, tất nhiên khuyết điểm đối với Hợp không phải là nhẹ, những hình thức kỷ luật tiếp theo đối với hai chiến sĩ là tất yếu. Còn đối với Hợp, một cái án kỷ luật chắc chắn là khó tránh khỏi và Hợp đang cho sự phán xét của cấp trên.
          Đó là kỷ niệm sâu sắc nhất trong đời bộ đội của Hợp. Thấm thía biết bao, một khi đã biết chiến sĩ của mình làm việc sai trái nhưng vẫn làm ngơ và đồng tình với những cái sai ấy. Cũng là một bài học kinh nghiệm đối với Hợp: sự non nớt trong chỉ huy, sự hữu khuynh, cả nể của người cán bộ đôi khi có hại biết chừng nào.
                                                                                      Nguyễn Văn Lai






















MỘ TỔ
Truyện ngắn: Nguyễn Văn Lai

          Mặt trời vừa hé, ông Lục vác cuốc ra đồng đắp lại những đoạn bờ ruộng bị vỡ, giữ nước cho mấy sào lúa đang thì con gái. Cả một buổi vất vả, nước ở ruộng mới được giữ lại, nhìn lúa xanh mơn mởn, trông như bức thảm nhung, ông thấy lòng mình ấm lại và tự hỏi chính mình, không hiểu vụ mùa năm nay lúa có bị chuột phá không? Năm ngoái, năm kia, cùng thời điểm này, ruộng lúa của ông và mấy nhà anh em trong dòng họ Đào ở thôn Liêm này đều xanh tốt phơi phới; nhưng cứ đến lúc lúa làm đòng, gần đến ngày trổ bông, bỗng dưng chuột đồng đến phá phách dữ dội. Từng cây lúa đang ngậm đòng bị cắn ngang thân gãy gập xuống mặt ruộng, làm ông Lụa đứt từng khúc ruột. Đến vụ, thu hoạch mối sào chẳng đáng là bao, may mắn nhà ông có tý nghề phụ, không thì có mà chết đói. Cả thôn, cả họ bảo nhau ra đồng diệt chuột, nhưng mà chuột ở đâu lắm thế, đánh bẫy, hun khói... bắt được cả đàn nhưng chuột vẫn cứ nhiều nhưng hình như chỉ nhằm vào ruộng của ông và mấy nhà thuộc họ Đào cắn phá.
          Lũ chuột chết tiệt, sao chúng không sang ruộng nhà họ Trịnh mà cắn. Nhìn ruộng lúa xanh tốt của họ Trịnh bên cạnh, họ Lụa lại nhẩm nói một mình.
          Gần trưa, ông lững thững vác cuốc về nhà, đi qua khu nghĩa địa của làng ông đến ngôi mộ tổ họ Đào, cuốc mấy viên đất đắp thêm lên trên mộ, bất chợt ông nhìn sang khu mộ họ Trịnh, vẫn thấy có nhiều chân nhang cháy dở, ông để ý những ngôi mộ của từng dòng họ chẳng có gì đặc biệt cả, thường an táng theo các khu vực khác nhau trong nghĩa địa. Hôm nay ngắm kỹ, ông thấy mộ tổ của họ Trịnh to hơn, nằm gần chính giữa nghĩa địa. Trong ông chợt loé lên ý nghĩ, ông chặc lưỡi vác cuốc lên vai rảo bước.
          - Hay là như thế, hay là như thế... vừa đi ông vừa lầm rầm như đi cầu kinh và về đến nhà lúc nào chẳng rõ.
          Bữa cơm chiều hôm đó, ông ăn ít, trầm ngâm bên chén rượu trắng đã cạn, ông nói với vợ.
          - Ngày mai, bà đi chợ mua một ít hoa tơi để tôi thắp hương tế mộ Tổ, xin các cụ phù hộ cho năm nay được mùa, con cháu khoẻ mạnh, chứ cứ như mọi năm lúa thì bị chuột cắn, chăn nuôi dịch bệnh chết gần hết, người trong họ cứ ốm đau liên miên.
          - Đúng đấy ông ạ! Bà Lụa nói theo. Ông phải tế cụ Tổ để cụ phù hộ, độ trì cho con cháu nhà họ Đào ta ăn nên, làm ra, chứ không cứ như mấy năm trước thì chết cả.
          Thế thì bà nhớ mua thêm một chai rượu ngon và thịt một con gà nữa nhé.
          - À mà này ông ! ông thử đi xem bói xem, mấy hôm nay ở chợ có một ông thầy bói người Tầu xem bói giỏi lắm. Lâu lắm rồi mới thấy xuất hiện một ông thầy Tầu đấy, ông cứ thử đi xem, xem sao.
          - Thế à ! Mai tôi đi chợ vào hỏi ông thầy xem thế nào? các ông thầy Tầu họ giỏi lắm đấy. Họ có chữ thánh hiền nên họ biết tuốt, trên trời dưới đất họ thuộc như lòng bàn tay. Nhưng mà sao bà không nói sớm.
          Con đường đến chợ không xa, vượt qua bờ đê. Ông rảo bước trên con đường mòn, hai bên đường đầy cỏ bông may, chiếc quần nâu ta bám đầy hoa  cỏ may chi chít. Còn sớm nhưng ông Lụa vẫn bước nhanh chỉ sợ đến chợ đông người, không kịp thầy xem cho sớm nhất. Mặt trời đỏ vừa chui ra khỏi những đám mây xám, chiếc những tia nắng hình rẻ quạt xuống làng quê đầm ấm. Tiếng các bà, các chị đi chợ chuyện trò ríu rít, một vài người quen gặp ông vẫn chào hỏi như thường ngày. Vào đến chợ, các hàng quán náo nhiệt bán mua. Hôm nay chợ phiên có khác hàng hoá nhiều hơn mọi hôm, ông Lụa chen qua mấy hàng xén, lách mình bước vội qua hai dãy hàng rau. Ôi chao, sao mà rau nhiều thế, nào mùng tơi, rau muống, bí đỏ, bí xanh, cà xếp chật cả chỗ bước, tiếng mời chào ông mua rau náo nhiệt. Đi qua hàng gạo, cả chợ chỉ lèo tèo mấy thúng gạo quê, ông đến gần hàng bán thuốc lào, cạnh vài hàng bán thuốc Bắc và nhìn thấy ông Thầy Tầu ngồi trong góc chợ. Đây đúng là ông bói mặc áo the vàng, quần thâm, cặp kính đen, to che gần kín mặt, đầu đội chiếc khăn xếp còn nguyên nếp gấp, trông ông nửa sang trọng, nửa nhà quê, rất  dễ nhận vì ông ăn mặc không giống người ở vùng này. Ông ngồi xếp bằng trên một mảnh chiếu cũ, phí trước trải ra một quyển sách chữ nho, góc sườn tua tủa xác sơ. Chẳng hiểu mắt thầy còn sáng hay không thấy gì mà tay thầy lần sờ từng trang, mắt hiêng hiếng ngó từng con chữ, có lúc đưa sách sát mặt kính đen, hẳn là thấy đang đọc điều gì  đó.  Ông Lụa vừa bước đến trước chỗ thầy ngồi, thì thầy đã lên tiếng.
          - Ôi nào! ông khách đấy à ! Ông khách xem về mồ mả phải không ? Động rồi, động rồi, mộ cụ Tổ dòng họp mà lại đặt ở đây là không ổn rồi, khó làm ăn lắm!
          Ông Lụa ngạc nhiên đến thấy kinh vội vàng hỏi thầy:
          - Thầy bảo với ai đấy ạ !
          - Ô hay, tôi đang nói với ông khách chứ, mộ Tổ mà chẳng quan tâm gì, để mộ không đúng hướng, đúng nơi đấy !
          - Xin thầy cho biết rõ hơn một tý được không ạ ! Thầy thánh thật !
          - Ối giời ơi ! Đấy đấy, cùng một nghĩa địa mà mộ Tổ dòng họ khác to hơn, táng đúng chính giữa nghĩa địa, thì bao nhiêu lợi lộc về họ hết rồi còn gì !
          - Thế thì làm thế nào được hở thầy ? Ông Lụa hoang mang hỏi.
          - Còn làm thế nào nữa, phải tìm cách chứ ! Trừ phi mộ Tổ của ông khách táng đúng "chỗ đấy" thì dòng tộc mới khá được. Đấy chính giữa nghĩa địa ấy. Đại cát, đại cát: Thôi thôi, không xem cho ông khách nữa cho xin hai hào, hai hào thôi !
          Trả tiền xong, ông Lụa ra về, vừa đi ông vừa lẩm nhẩm "đúng chỗ ấy, đúng chỗ ấy, giữa nghĩa địa. Thôi chết rồi, chỉ có  như thế. Chỉ có như thế thì mới khá được, Đại cát, đạt cát đúng rồi...". Ngay tối hôm đó một cuộc họp dòng họ Đào được tổ chức bí mật. Sau khi ông Lụa đưa ra những lời nói của thầy bói Tầu phán và ý định của ông, nhiều ý kiến bàn tán qua lại, cuối cùng đi đến thống nhất: Phải di chuyển mộ cụ Tổ dòng họ Đào vào đúng chỗ đã định, đúng giữa nghĩa địa. Mà chính giữa nghĩa địa lại đúng vào  khu mộ Tổ của dòng họ Trịnh nên không khí cuộc họp lắng xuống và một quyết định đen tối được cả họ quyết định.
          Hôm ấy cuối tháng trời không có trăng, ánh sáng của những vì sao đêm hè đủ để soi sáng cho họ làm việc ban đêm ngoài nghĩa địa làng Liêm. Trai tráng trong dòng họ Đào được lực chọn trên trục người lực lưỡng, thạo công việc thổ, mộc; dưới sự chỉ huy của ông Lụa, họ đã đào đường hầm xuyên xuống dưới mộ Tổ họ Trịnh, rồi họ đăth mộ cụ Tổ họ đào xuống, lấp đất lại và xoá dấu vết, sau khi kết thúc công việc, về đến nhà trời đã vừa sáng. Vì vậy, không thể biết phát hiện và biết được rằng, phí dưới mộ cụ Tổ của họ Trịnh dẫu thường ngày có ra nghĩa địa thăm viếng mộ Tổ cũng không thể phát hiện và biết rằng, phía trước mộ cụ Tổ của họ Trịnh lại có mộ cụ Tổ của họ Đào.
          Cuộc sống của làng Liêm vẫn diễn ra bình thường như bao làng quê khác, có điều không hiểu sao ngẫu nhiên hay linh ứng mà từ đó trở đi nhà ông Lục và dòng họ Đào làm ăn nhất phát đạt, lúa tốt bời bời, ít bị chuột cắn phá, thu hoạch bằng hai bằng ba những năm trước. Con cháu họ Đào đỗ đạt nhiều hơn, có người đỗ đến tú tài, phó bảng, cử nhân... được bổ nhiệm làm đến chức thông phán, thầy đồ ở nhà lại.v.v. Cũng từ đó dòng họ Trịnh cũng lụi dần, bao nhiêu lần đi thi thì các sĩ tử của dòng họ Trịnh đều bị trượt, không một ai có tên trên bảng vàng, mặc dù làng Liêm là vùng đất học. Một số cụ họ Trịnh làm quan ở phủ, ở huyện được nghỉ hồi hưu, tai ác hơn có người nhà họ Trịnh đi buôn bán, làm ăn lại thua lỗ, tức quá phát điên, phát khùng. Một vài cậu bỏ làng đi phu mỏ chẳng thấy tin tức gì, có  cậu còn bị chết khi hầm lò bị sụp.
          Chính những điều tai hại đó làm cho con cháu họ Trịnh suy nghĩ và họ so sánh với dòng họ Đào ngày càng làm ăn phát đạt. Bí bách họ lại ra mộ Tổ tạ lễ, thắp hương cúng bái, sửa sang phần mộ mong các cụ Tổ phù hộ, độ trì, trong quá trình đào cỏ đắp mộ, họ phát hiện dấu vết của một đường hầm đào ngầm dưới đáy mộ tổ của họ. Rồi ông thầy bói Tầu ngồi ở góc chợ lại được con cháu họ Trịnh tìm đến hỏi. Ông Lộc, chi trưởng họ Trịnh được dòng họ cử đi gặp thầy bói, nghe thầy phán.
          Cũng vào một buổi sáng tốt ngày, đúng phiên chợ chính, ông Lộc quần áo chỉnh tề, cầm ô vượt qua bờ đê đến chợ, nhanh chóng ông tìm gặp được thầy ngay, vừa đến nơi, chưa kịp chào thầy, thầy đã nói luôn:
          - Quan khách à ! Lại động rồi, động rồi. Miệng nói, tay thầy lần sờ quyển sách chữ nho đã nhàu nát. Sách dạy rõ đây này : Táng tùng, táng tùng. Đai tai, đại tai !  
          - Dạ thưa thầy ! Ông Lộc mặt tái đi, lập bập hỏi. Đai tai là thế nào hở thầy? Thầy nói về cái gì thế !
          - Quan khách ơi ! Nói về mộ tổ của dòng họ quan khách đấy vớ ! mộ tổ bị động rồi, làm thế nào mà lại có mộ của người khác táng trùng vào mộ tổ của dòng họ quan khách thế ? Cho nên tại họa nhiều lắm, nhiều lắm !
          - Thế bây giờ phải làm thế nào hở thầy ?
          - Còn thế nào nữa! Phải tạ các cụ thôi. Phải táng lại mộ tổ, không thể táng trùng như thế được. Dưới âm phủ đánh nhau thì dương gian phải chết người, hại của chứ làm thế nào nữa. Không làm nhanh thì tuyệt tự đấy vớ ! Hai hào, hai hào, quan khách cho xin hai hào !
          Ông Lộc lập cập trả tiền, chào thầy bói và hớt hải chạy về nhà, một cuộc họp họ Trịnh lại được tổ chức ngay tối hôm đó tại nhà ông. Cũng có những ý kiến khác nhau, nhưng hầu hết phẫn nộ và đi đến thống nhất chung.
          - Phải kiện, phải kiện thôi. Kiện cho bọn họ Đào trắng mắt ra. Ông Lộc nhờ cụ Phán đã hồi hưu của dòng họ Trịnh thảo một lá đơn kiện họ Đào gửi lên tri huyện Liên Thanh. Ít lâu sau có trát về đòi ông Lộc họ Trịnh và ông Lụa họ Đào lên hầu kiện. Bên nguyên có lý của bên nguyên, bên bị có lý của bên bị, nghĩa trang là nghĩa trang chung của làng, của Tổng, ai để phần mộ ông bà trước thì người đó đúng. Cuối cùng quan xử bên ông Lụa thắng kiện vì mộ cụ tổ dòng họ Đào nằm phía dưới mộ cụ tổ họ Trịnh. Như vậy là bên họ Đào đã an táng mộ cụ tổ của mình trước mộ cụ tổ của dòng họ Trịnh, mà như vậy là họ Đào đúng và thắng kiện. Buộc họ Trịnh phải di rời mộ cụ tổ của mình đi chỗ khác an táng. Mà nhà quan đã xử thì chỉ có đúng và dân phải nghe theo.
          Ông Lộc cùng những người trong dòng họ trịnh rời cửa quan ra về trong lòng ấm ức mà chẳng nói gì được. Họ thù dòng họ Đào ra mặt, từ đó mâu thuẫn giữa hai dùng họ ngày càng được đẩy lên cao, tưởng như không bao giờ hết. Xung đột xảy ra liên miên, mẻ đầu sứt tai là chuyện thường tình giữa hai dòng họ. Tình làng nghĩa xóm chẳng còn, con trai, con gái thuộc hai dòng họ không được lấy nhau, người họ Trịnh và người họ Đào không được tiếp xúc trong một điều kiện. Trong một làng, một Tổng mà hai dòng họ đối xử với nhau như kẻ thù. Chẳng biết có phải do chanh chấp an táng mộ tổ hay không mà cứ thời gian này dòng họ Đào phát đạt thì dòng họ Trịnh Lụi bại, khi dòng họ Trịnh phát đạt thì dòng họ Đào lụi bại, cứ như thế cuộc chiến có lúc ngấm ngầm, có lúc công khai dai dẳng không bao giờ chấm dứt.
          Năm Ất Dậu, ai cũng nhớ mãi những ngày lận đận ấy, người chết đói, chết rét, chết bệnh nhiều vô kể, cùng với nạn đói là dịch bệnh hoành hành. Làng Liêm cũng như bao làng quê khác của Đồng bằng Bắc Bộ phải chịu cảnh chết vì đói, chết vì bệnh dịch, dân số của làng Liêm hao hụt trông thấy. Dòng họ Đào và dòng họ Trịnh không thoát khỏi guồng máy của cảnh ấy; nhất là những hộ nghèo còn bị thần chết và ôn dịch bắt một lúc bốn, năm người. Người nòn còn sống sót thân thể chỉ còn da bọc xương, quần áo tả tơi tóc tai bù xù, bước đi xiêu vẹo trông như cái xác không hồn. Không ít mà phải bỏ làng tha phương cầu thực mà chẳng bao giờ thấy trở lại làng Liêm nữa.
          Thay may, mùa thu năm ấy, cách mạng về nhân dân vùng đấu tranh, phá kho thóc của Nhật, chia cho người nghèo. Người làng Liêm theo cách mạng rất đông ai nấy xung phong tham gia khởi nghĩa, cướp chính quyền. Họ Đào và họ Trịnh còn sót người nào, nhất là lớp thanh niên trai tráng đều nhất  tề đứng dậy cùng với Việt Minh lật đổ chính quyền phong kiến thối nát, lập nên nhà nước công nông ở địa phương. Những năm tháng sau đó, thanh niên nam nữ của hai dòng họ được giác ngộ cách mạng, đi theo cách mạng, đi theo Việt Minh, xây dựng chính quyền nhân dân. Làng Liêm thay da đổi thịt, nạn đói, nạn dốt và dịch bệnh dần dần được đẩy lùi. Không khí cách mạng dâng cao nhân dân hưởng ứng đông đảo, tạm thời dường như mọi mâu thuẫn, xung đột trong làng được lắng xuống. Mục tiêu đấu tranh của nhân dân nhằm vào bọn địa chủ phong kiến và quan lại. Khi chính quyền đã về tay nhân dân, làng Liêm bước vào cuộc sống mới chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Mặc dù mối hiềm khích giữa hai dòng họ tạm lắng xuống trong những ngày sục sôi cách mạng, bây giờ lại âm ỉ nhem nhóm, nó không bùng nổ dữ dội như trước, đen tối, hãm hại nhau lại xuất hiện ở cả hai dòng họ. Người ta ngầm so sánh dòng họ Đào có bao nhiêu người đi thoát ly, tham gia cách mạng, dòng họ Trịnh có bao nhiên người giữ chức vụ chính quyền  thôn xã... những năm đầu của cách mạng, đất nước lại bị thực dân pháp xâm lược, làng Liêm nằm trong vùng địch tạm chiếm, những thủ tục lạc hậu năm xưa lại tiếp tục tái diễn, bệnh dịch tả, thương hàn, đậu mùa thay nhau hoành hành, tàn phá nhà quê bé nhỏ và dịch đau thương này. Vẫn chưa hết cảnh người chết vì giặc chết, vì đói, vì bệnh tật.
          Nhận lệnh ở trên người y sỹ Đào Văn Nhàn bí mật vượt qua các bốt giặc trở  về làng thực hiện nhiệm vụ nặng nề của Đảng và quân đội giao cho là vận động quần chúng tích cực tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, chữa liệt, chữa đồng bào và du kích địa phương khi bị thương. Nhiệm vụ nặng quá sức đối với một y sỹ mới được đào tạo gấp trong quân đội. Nhưng Đào Văn Nhàn, bằng nghị lực và tuổi trẻ của mình cộng với tình yêu quê hương nên anh đã trở về làng Liêm. Nhàn được huyện đội bố trí phối hợp đấu với đội du kích của xã do Trịnh Bá Nhung làm đội trưởng. Gặp nhau, hai cặp mắt bất chợt loé lên những tia giận giữ của lòng hận thù năm xưa. Đào Văn Nhàn chính là con trai của Đào Văn Lụa chi trưởng họ Đào làng Liêm; Trịnh Bá Nhung là con trai độc nhất của ông Trịnh Bá Lộc chi trưởng họ Trịnh cùng làng. Tuy nhiên sau những giây phú ngỡ ngàng, mất bình tĩnh ấy, Đào Văn Nhàn xác định lại vị trí của mình là một chiến sĩ quân đội tăng cường cho địa phương, anh điềm đạm, chủ động tiến đến bắt tay trân trọng Trịnh Bá Nhung. Mặc dù không mốn nhưng Trịnh Bá Nhung vẫn cảm nhận được cái bắt tay hoà bình thân thiện. Tuy mỗi người một suy nghĩ khác nhau nhưng có một điểm chung là phải hợp tác hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng giao cho. Vốn là những quần chúng tốt được cách mạng giác ngộ, một người đi theo bộ đội được học hành nghề y, được bồi dưỡng ý thức chính trị và trở thành Đảng viên, trở về làng đánh giặc giải phóng quê hương. Một người ở quê, hăng hái tham gia chiến đấu phá tề, diệt đế quốc được Đảng và nhân dân tin cậy giao cho làm đội trưởng đội du kích của xã và cũng trở thành Đảng viên. Làng Liêm là một làng nằm trong vùng địch tạm chiếm, có tề, nguỵ nhiều. Nhàn và Nhung cùng sinh hoạt trong một chi bộ xã ; tuy có những mâu thuẫn truyền đời giữa hai dòng họ với nhau nhưng có một điểm chung là lòng yêu nước, yêu quê hương, căm thù giặc sâu sắc nên họ có suy nghĩ chung là chỉ có đoàn kết lại cùng nhân dân sát cánh bên nhau lập làng kháng chiến thì mới giải phóng được quê hương khỏi ách áp bức của giặc Pháp mà thôi.
          Chiến sỹ quân y Đào Văn Nhàn và đội trưởng đội du kích Trịnh Bá Nhung đều là những thành phần nòng cốt của Đảng và nhân dân địa phương. Bộ đội Nhàn là đặc tình của Tỉnh đội. Đội trưởng du kích Nhung là chỗ dựa của cả đội du kích xã và cả nhân dân trong chiến đấu phá tề diệt ác. Họ đã phối hợp hoạt động, tham gia nhiều trận đánh thắng lợi, lập nhiều chiến công.
          Đêm ấy, gần 3 giờ sáng, đội du kích của xxa do Trịnh Bá Nhung phụ trách dưới sự chỉ huy của xã đội trưởng và phối hợp chiến đấu của bộ đội Nhàn, tiến công đồn giặc Pháp ở đầu làng Liêm nhằm tiêu diệt chúng tạo điều kiện cho bà con nhân dân đứng lên phá tề. Đêm cuối tháng, trời tối đen như mực, thỉnh thoảng tiếng gà gáy thưa thớt trong làng vọng đến nghe buồn não ruột. Đội du kích áp sát đồn giặc, bất ngờ tiến công khi nhận được ám hiệu của nội ứng. Trận đánh tưởng như thuận lợi nhưng càng ngày càng diễn ra ác liệt, khi du kích ta mở cửa đồn xông vào gặp địch đánh trả dữ dội, hoả lực của chúng bắn ra mãnh liệt, các hướng tiến công đều chặn lại, không thể phát triển được. Xã đội  trưởng đành phải cho du kích rút lui. Trận đánh không thành công do khâu nắm địch không chắc, ban đầu đồn ấy chỉ có một tiểu đội trung đội (thiếu) do một tên quan hai Pháp chỉ huy. Sau gần 30 phút chiến đấu, du kích phải trở ra cánh đồng Bồ Vai, vượt qua nghĩa địa để vượt sông về căn cứ tập kết. Khi du kích rút đến nghĩa địa của làng thì hoả lực địch bắn chặn dữ dội, moóc - chê của chúng bắn chặn đường rút của du kích, lính từ trong đồn nống ra truy kích. Xã đội trưởng, bộ đội Nhàn và đội trưởng du kích Nhung đánh cản hậu để du kích vượt sông. Từng phát súng trường của đội du kích  bắn trả đĩnh đạc nhưng bọn giặc vẫn liều mạng truy đuổi. Một quả moóc - chê nổ gần, Trịnh bá Nhung bị mảnh đạn găm trúng đùi và ngực không thể rút được, máu của anh loang trên nghĩa địa làng. Y sĩ Nhàn nhanh chóng đưa thương binh vượt sông, nếu không thực hiện phương án này thì cả tổ khó mà thoát được địch truy kích, làm thế nào để giảm nhẹ thương vong, chỉ có cách duy nhất là phải nhận hy sinh về mình để đồng đội rút an toàn. Sau một hồi giằng co, xã đội trưởng nhận trách nhiệm đưa thương binh vượt sông về căn cứ. Nhàn ở lại với hai quả  lựu đạn cán gỗ Việt Nam, một khẩu Tiểu liên Sten bằng động tác nhanh nhẹn của người chiến sỹ quân đội, anh lăn nhiều vòng về phía cánh đồng Bồ Vai, nổ súng nhả từng loạt Tiểu liên về phía địch. Phát hiện hoả lực ta, địch tưởng du kích rút theo hướng đó tập trung lực lượng bắn chặn  và truy kích, Nhàn lợi dụng từng bờ ruộng anh bắn từng loạt đạn ngắn về phía địch, sau đó rút dần lên nghĩa địa, Nhàn có điều kiện ẩn nấp bắn trả, nhưng vòng vây của địch ngày càng khép lại, chỉ đến khi hết đạn và bị thương, anh mới rơi vào tay giặc. Bị chúng bắt tra tấn giã man, nhiều lần chết đi sống lại. Chính những lúc sống, chế kề cận anh mới thấy tình làng nghĩa xóm cao qúy biết bao. May thay nhờ nội ứng Đào Văn Nhàn đã trốn thoát khỏi đồn  giặc, trở về với đồng chí, nhân dân. Trong những ngày nằm ở căn cứ du kích, Nhàn đã tự chứa vết thương cho Trịnh Bá Nhung, vết thương của nhung rất nặng, có lúc tưởng như không qua khỏi, nhưng nhờ lòng nhiệt tình, trách nhịêm của y sĩ Nhàn và đồng đội Nhung đã thoát khỏi lưỡi hái của thần chết, dần dần bình phục. Có lúc hai người chung nhau một bát cháo cá, cháo ốc, hương vị của làng quê. Những ngày gian khổ đó, Nhàn và Nhung mới thấy hết được tình cảm chân thật của mỗi người, vừa tình đồng chí, vừa trách nhiệm với nhau. Bao nhiêu hiềm khích, hận thù của họ tự nhiên tan biến đi. Vả lại các cụ Lụa, cụ Lộc cũng đã qua đời mấy năm trước, được chứng kiến những cảnh này chắc hẳn các cụ cũng sẽ thay đổi cách ứng sử, đối lại tình đoàn kết vốn có trong cùng một làng quê xưa.
          Tôi về thăm làng Liêm theo lời mời của Đào Thanh - bạn cùng đơn vị cũ,  ã phục viên và được nghe kể câu chuyện trên trong bữa rượu mừng hội ngộ. Nâng chén rượu lên nhưng môi không nhấp, Đào Thanh - Hậu Nhuệ của dòng họ Đào kế tiếp:
          - Chuyện tôi kể cho anh chính bố tôi kể lại truyền đời cho con cháu đấy. Đó là sự thật, một sự thật phũ phàng, cay đắng tưởng trừng như đã chôn vùi theo quá khứ, nào ngờ nay lại đang manh nha hình thành nên những mâu thuẫn mới, một cuộc chiến tranh mới.
          - Như vậy thật sao ? Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
          - Ông cứ cơm rượu xong xuôi, nghỉ ngơi, chiều tôi sẽ đưa ông đi dạo thăm làng Liêm của tôi, tiện thể thăm lại nghĩa địa của làng luôn. Chính ở nghĩa địa này, Bác ruột của tôi là Đào Văn Nhàn đã chiến đấu anh dũng, máu của bác đã thắm đỏ mảnh đất này  để giữ làng xóm quê hương.
          Đúng hẹn chiều hôm đó, Đào Thanh dẫn tôi cuốc bộ lững thững dọc theo con đường làng đất min ngắm cảnh làng quê. Làng Liêm nay mái rạ không còn, thay vào đó là những ngôi nhà ngói đỏ, nhà mái bằng vuông vắn, thấp thoáng một vài ngôi nhà hai, ba tầng nổi trội, xen kẽ những căn nhà cấp bốn rêu xanh. Vốn là một làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhưng tuyệt nhiên tôi không còn  thấy bóng dáng bờ tre, hàng cau như trước nữa chỉ thấy nhà san sát nhấp nhô, ngõ nhỏ từng nhà lát gạch hoặc đổ bê tông sạch sẽ, con đường được bê tông hoá. Đào Thanh dẫn tôi đến nghĩa địa của làng Liêm. Chao ôi ! sao mà sặc sỡ sắc màu của  "kiến trúc nhà mồ" kiểu mới. Những ngôi mộ chưa được xếp thành hàng ngay ngắn mà được xếp thành một khu riêng biệt của từng dòng họ. Có khu  mộ xây to như xây nhà ở. Có cổng vào cột tròn, cân đối chữ nho. Hầu như ngôi mộ nào cũng có chữ phúc gắn liền với mộ chí. Có những khu mộ đang xây dựng dở, giàn giáo mắc lỉnh kỉnh, cao ngất ngưởng, mới nhìn cứ tưởng một công trình đang xây. Đào Thanh chỉ khu mộ to được trang trí cầu kỳ gần chính nghĩa địa và nói.
          - Đấy là khu mộ tổ họ Trịnh đấy ông ạ ! Họ xây to chưa. Toàn tiền đóng góp của con cháu của học Trịnh đấy ! Riêng cổng chào  và ngôi mộ cụ tổ tiền xây dựng hơn 80 triệu  đồng đấy ! Do tài trợ của anh họ Trịnh Việt kiều ở bên Bắc Mỹ gửi về năm ngoái, năm kia, ở làng chỉ đóng thêm công thợ mà thôi.
          Ngắm nhìn khu mộ, tôi chỉ còn biết tấm tắc khen độ tinh sảo của các tay thợ làng Liêm như thế, quả là đẹp thật, có những đường lượn rồng phượng cầu kỳ, còn hơn cả xây nhà cho người sống nữa.
          - Ông biết không ? khu mộ đang xẩy giở kia là mộ họ Đào tôi đấy! Phương án và thiết kế xẽ xây to và cao hơn mộ của họ Trịnh, mới xây được già nửa đã dừng lại vì  thiếu kinh phí, hiện đang phải kêu gọi sự đóng góp của con cháu họ Đào. Mỗi xuất đinh ở quê là một triệu đồng, nếu là con gái thì tuỳ tâm, nhưng vẫn chưa đủ. Hiện nay cả họ đang vận động một số con em, dâu rể đi xuất khẩu lao động ở Đông Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản... gửi đô về mới có tiền tiếp tục xây.
Nghe Đào Thanh nói vậy mà người tôi thấy ớn lạnh, gai ốc nổi cả lên.
Tôi thầm nghĩ một cuộc chiến xây mộ đang âm ỉ, sôi động và bùng phát ở làng Liêm và liệu có còn làng quê nào như thế không.
Tôi chợt liên tưởng đến những ngày đứt bữa rau cháo cầm hơi của một thời và của những ngày ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời.                 
                                                                            



TÌNH NGHĨA SƠN TÂY

          Đối với bất kỳ một cán bộ, giáo viên, học viên của Trường Sĩ quan Lục quân 1 không thể quên được hai địa danh luôn gắn với sự ra đời, xây dựng và trưởng thành của nhà trường, đó là Tuyên Quang và Hà Tây. Ở Khuối Kịch (Sơn Dương - Tuyên Quang) nơi sinh ra Trường quân chính kháng Nhật - Tiền thân của Trường Sĩ quan Lục quân 1 ngày nay, còn Sơn Tây (Hà Tây), nơi nuôi dưỡng xây dựng, phát triển và trưởng thành của Nhà trường trong gần 60 năm qua.
          Tuyên quang là mảnh đất chiến khu cách mạng, có cây đa Tân trào, mái đình Hồng Thái, lán Nà Dừa... Nơi ra đời những quyết định của Đảng, nơi khởi nguồn chiến  thắng của cách mạng Việt Nam. mảnh đất thiêng liên đó, Trường Sĩ quan Lục quân 1 đã ra đời, tiến hành đào tạo những khó cán bộ quân sự - chính trị đầu tiên cho Quân đội nhân dân Việt Nam, đó là niềm vinh dự tự hào to lớn mà các thế hệ Lục quân luôn trân trọng và ghi nhớ trong tâm khảm của mình.
Ở Hà Tây, mảnh đất xứ Đoài với nhiều huyền thoại của lịch sử và hiện tại nơi đây, có thiên nhiên hùng vĩ núi Tản, sông Đà, dòng Nhuệ Giang vắt ngang bồi đắp những phù xa, mang về nhiều mùa màng no ấm. Con người Hà Tây thông minh, dũng cảm, đất Hà Tây giường như  được tích tụ bởi khí thiêng liêng sông núi, nên đã sinh ra những trai tài gái đảm "Những cô gái suối Hai, những anh chàng Cầu Giẽ", những con người nghị lực và kiên cường trong chiến đấu chống kẻ thù, thông minh sáng tạo trong lao động sản xuất; trồng lúa ngô thì lúa ngô nảy hạt, làm thợ thủ công thì nổi tiếng cả một vùng và khắp đất nước. Vinh dự tự hào đối với Trường Sĩ quan Lục quân 1, với gần 60 năm ra đời, thì có đến hơn 40 năm đóng quân trên đất Hà Tây giàu huyền thoại này, từ khi còn sơ khai, trứng nước Nhà trường đã chọn Sơn Tây làm nơi đóng quân để huấn luyện những khoá cán bộ "Võ bị Trần Quốc Tuấn " đầu tiên, góp phần tạo ra đội ngũ cán bộ quân sự ưu tú cho Đảng và quân đội, để bảo vệ chính quyền nhân dân còn non trẻ lúc bấy giờ. Nhân dân Sơn Tây yêu quý, đùm bọc các anh "Vệ túm", "Vệ trọc", giúp đỡ bộ đội Lục quân rất nhiều cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy quân và dân lúc ấy rất nghèo, thậm chí có lúc còn đói khổ nhưng đồng bào vẫn yêu thương bộ đội như con; Các mẹ, các chị, các em gái Sơn Tây giành cho các chú học viên Lục quân những củ sắn lùi thơm phức, những bắp ngô non ven bãi sông Hồng mới bẻ mang hương vị ngọt ngào. Chính ở nơi đây, khách sạn SaLê năm xưa (bến xe ô tô Sơn Tây ngày nay), Khoá 1 Võ bị Trần Quốc Tuấn được khai mạc, Nhà trường đã cùng với nhân dân Sơn Tây vui mừng, phấn khởi được đón Bác Hồ về thăm và trao lá cờ truyền thống "Trung với nước, hiếu với dân" cho Nhà trường.
Kháng chiến bùng nổ, bộ đội Lục quân tạm biệt quê hương Sơn Tây trở lại chiến khu Việt bắc và sang nước bạn đào tạo. Đồng bào Sơn Tây bồi hồi tiễn đưa, bịn rịn chia tay, mong có ngày bộ đội Lục quân trở lại xứ Đoài. Những tấm áo trấn thủ từ tay các mẹ, các chị trao cho bộ đội Lục quân, lại bước theo bước chân các anh lên đường đi đến các nẻo đường của Tổ Quốc, làm ấm lòng bao chiến sĩ Lục quân những đêm đông giá rét nơi biên thuỳ, và tiếp thêm sức mạnh, nguồn động viên quý báu để người chiến sĩ Lục quân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đào tạo cán bộ của mình. Hoà bình lập lại, bộ đội Lục quân trở về Sơn Tây, trên mảnh đất Công trường 50 đầy sỏi đá và nắng gió. Đồng bào Sơn tây lại cùng với bộ đội Lục quân san sẻ những gian khổ trong lao động, huấn luyện và xây dựng Nhà trường. Có những lúc nhạt muối, đói cơm nhưng tình nghĩa quân dân cá nước thì không bao giờ phai nhạt. Cũng có khi nhân dân gặp hiểm nghèo, lũ lụt kéo về, phản động phá hoại, máy bay quân thù bắn phá, bộ đội Lục quân lại giúp dân trừ gian, cứu đói, hộ đê, chống lũ lụt, giúp đồng bào sơ tán khỏi bom đạn của giặc Mỹ.... ơn nghĩa đó đồng bào và bộ đội đều ghi.
Đất nước mở cửa, luồng gió đổi mới thổi đến từng nhà, nền kinh tế của cả nước nói chung và của Sơn Tây nói riêng có bước phát triển vượt bậc, đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc, làng xóm thay đổi da thịt. Bộ đội Lục quân lại cùng với chính quyền nhân dân Sơn Tây chung tay xây dựng quê hương giàu đẹp, phát triển kinh tế vững mạnh, xây dựng địa bàn đóng quân an toàn, an ninh trật tự xã hội. Công cuộc xoá đói giảm nghèo được các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương chăm lo, thúc đẩy. Bộ đội Lục quân lại cùng nhân dân đóng góp giúp đỡ những gia đình chính sách, những người có hoàn cảnh khó khăn. Bộ đội tặng quà tặng sổ tiết kiệm, xây nhà tình nghĩa, đóng góp quỹ từ thiện , quỹ bảo trợ trẻ em, khám chữa bệnh miễn phí cho nhân dân trên địa bàn đóng quân. Nhân dân địa phương vẫn yêu quý nhân dân như xưa, đồng bào tạo điều kiện  mọi mặt cho bộ đội Lục Quân học tập, huấn luyện, khi bộ đội luyện tập gần dân, các gia đình cho bộ đội mượn nhà để ở, cho mượn vườn để luyện tập chiến thuật.
Tuy nhiên đâu đó vẫn còn một số ít phần tử xấu lợi dụng mặt trái cơ chế thị trường để làm trái với những quy định của pháp luật , gây ảnh  hưởng đến mối quan hệ và tình cảm đoàn kết quân dân, tạo nên những khó khăn tạm thời cho bộ đội và nhân dân địa phương. Một số ít kích động, lôi những người bất mãn lấn chiếm đất Quốc phòng, xây dựng nhà trái phép trên khu vực thao trường luyện tập của bộ đội, thậm chí còn chống đối, đánh trả người thi hành công vụ.
Không đồng tình trước số phần tử có thái độ quá khích, với quan điểm đoàn kết quân dân, xây dựng địa bàn đóng quân vững mạnh, trật tự an toàn xã hội, bộ đội Lục quân đã phối hợp với Đảng uỷ, chính quyền và công an các địa phương từng bước giải quyết, tháo giỡ những khó khăn phức tạp đó. UBND thị xã, công an Sơn Tây, Ba Vì đã phối hợp với bộ đội Lục quân dựa vào nhân dân kịp thời tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho nhân dân hiểu rõ và không nghe theo lời bọ xấu xúi dục. Đối với những đối tượng chưa tiến bộ, thì kiên trì giáo dục, thuyết phục, hiệu quả như vậy, bộ đội Lục quân đã góp phần cùng với cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân Sơn Tây xây dựng mối đoàn kết gắn bó, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Chưa hết, bộ đội Lục quân còn  tích cực tổ chức giao lưu kết nghĩa giữa các đơn vị cơ sở Nhà trường với các địa phương khu vực đóng quân, tạo nên tình cảm vốn đã gắn bó keo sơn lại càng keo sơn gắn bó. Các chi đoàn, Liên chi đoàn và đoàn cơ sở trong Nhà trường và địa phương thường xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu văn hoá văn nghệ, thi đấu thể thao, lao động giúp đỡ các gia đình chính sách... Vào dịp hè tổ chức cho các cháu thiếu nhi ở những thôn xung quanh Nhà trường hoạt động hè sôi nổi bổ ích. Có thời điểm đội văn nghệ xung kích và đội điện ảnh lưu động của Nhà trường thường xuyên đi về các địa phương, vùng sâu, vùng xa trong tỉnh địa bàn hoạt động của Nhà trường biểu diễn văn ghệ, chiếu phim màn ảnh rộng phục vụ bà con nhân dân... Những việc làm trên được Đảng, chính quyền và nhân dân địa phương ghi nhận. Đáp lại những tình cảm đó, nhân dân lại tạo điều kiện giúp đỡ bộ đội Lục quân trong huấn luyện, công tác và đời sống. Đặc biệt, khi phát hiện những vấn đề vướng mắc làm tồn hại đến mối quan hệ đoàn kết quân nhân, cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương đều phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhà trường trao đổi, bàn bạc tìm biện pháp tháo gỡ. Cả bộ đội và nhân dân đều hiểu rằng chỉ xây dựng tốt mối đoàn kết quân dân, giải quyết tận gốc những vấn đề nảy sinh giữa bộ đội và nhân thì mới góp phần xây dựng địa phương vững mạnh toàn diện, đẩy mạnh và phát triển tình đoàn kết mối quan hệ gắn bó, máu thịt giữa Nhà trường với nhân dân các địa phương trong khu vực đóng quân.
Ngày nay mỗi một cán bộ, giáo viên, học viên, chiến sỹ Nhà trường càng nhận thức sâu sắc và thấu hiểu được nghĩa tình sâu nặng của nhân dân Sơn Tây nói chung và đồng bào các xã trong khu vực đóng quân nói riêng đối với Nhà trường. Từ đó cố gắng hết sức mình vì tình đoàn kết gắn bó giữa bộ đội Lục quân với nhân dân Sơn Tây, đây vừa là trách nhiệm, tình cảm của mỗi người lính Lục quân góp phần xây dựng địa phương giàu đẹp.
                                                                   Nguyễn Văn Lai





    Hòa Bình, ngày ấy tôi lên

          Chiếc xe U oát vượt dốc Kẽm đưa chúng tôi đến thị xã Hòa Bình một thị xã miền núi nhỏ bé và đầy thơ mộng vừa bừng tỉnh dậy sau buổi sáng mùa đông xương mù dày đặc. Xe đến ngã ba, bên phải là đường lên thủy điện sông Đà, bên trái là đường đi Sơn La, chợ Bờ, suối Bút, nơi chúng tôi muốn đến là xã Bình Thanh, ở đó có xóm Gióng, có  mỏ đá, có tượng Đài Cù Chính Lan đánh xe tăng giặc. Bằng một đường cua  nhỏ, chiếc xe nhẹ nhàng rẽ trái, vượt qua quãng đường không dài và dừng lại trước cổng Bộ chỉ huy Quân sự Tỉnh. Sau khi xuất trình giấy tờ chúng tôi vào ban tuyên huấn gặp nhà thơ, Nhà phê bình văn học Nguyễn Anh Nội. Người bạn đồng môn, đường học, đường trường năm xưa, nay tóc đã điểm bạc, dáng người thiêng đậm vẫn cặm cụi bên giàn máy vi tính, lạch cạch trình xuất những vần thơ ca ngợi đất nước, gợi ca quê hương của Lò Cao Nhung, Nguyễn Tấn Vật. Sau cái bắt tay rất chặt Nguyễn Anh Nông không ngạc nhiên khi gặp lại những người quen thân cũ. Tôi và Đỗ Xuân Đô cán bộ Ban tuyên huấn TSQLQ2 và anh Phạm Hồng Sơn - Trưởng khoa bắn súng của nhà trường những con người làm thơ, viết báo, viết nach không nhiều, song tình yêu thơ, yêu nhạc, yêu người thì lại vượt quá cả thời gian. Cái cảm giác ban đầu khi đến với Hòa Bình, đến với người bạn làm thơ đó là tình cảm ấm cúng thân tình như thời học viên cùng chung điếu thuốc lá cuộn, ấm nước chè hâm trong bi đông và những buổi làm thơ, đọc thơ dưới gốc phượng không đèn mà vần trăng vẫn ẩn mình sau những tầng mây đặc. Thế mà ! thời gian trôi nhanh như dòng nước Đà Giang tuôn chảy. 20 năm có lẽ đến hôm nay, tóc bạc đã trắng trên đầu, tóc mình rụng mất một phần ba nhưng cái quý nhất thì vẫn còn ở lại đó là tình yêu thơ, tình đồng chí, óc sáng tạo và tinh thần lao động nghệ thuật không những vẫn tiềm ẩn mà đã thành hiện thực. Những bài thơ của bạn đã thăng hoa, những áng văn phê bình của mỗi đồng chí đã chắp cánh thêm cho những tập thơ và không quên nhặt những hạt sạn còn vương vấn lại. Bạn đã trở thành nhà thơ, thành hội viên hội văn nghệ tỉnh nhà. Mối quan hệ đã rộng hơn, tiếp xúc nhiều với những cây đa cây đề, trong làng báo, làng thơ học được ở những người có tên tuổi, sự tinh túy và những câu thơ sống mãi với thời gian, được các vị trưởng lão trong làng văn ưu ái khen che. Đã có những mùa thu hoạch bội thu, ba bốn tập thơ in ở trung ương và trong tỉnh có cả những bài phê bình động đến cả ...... vị khá “nặng cân”. Chao ôi ! mới đó mà ngày nào bạn vẫn lo cho tôi tuy cần cù nhưng thiếu tính kiên trì, biết thưởng thức thơ nhạc, biết yêu những tác giả, cá nhân, biết buồn khi gặp nhân vật, gặp cảnh không may thế mà hôm nay gặp lại nhau tay bắt mặt mừng, chúng ta tuy ít tài nhưng vẫn yêu thơ và đã là “con nhà tuyên huấn” cũng tập tọe dăm ba câu thơ, vài trăm bài báo, cũng nói được những lời các văn nghệ sỹ không chê, cũng hát sâu xa những làn điều chèo, đội câu quan họ, biết đọc những dòng tùy bút lưu danh, những đoạn thơ người đời cất trong túi áo.
          Rồi chúng ta nâng chén rượu ân tình, chuẩn bị đến Bình Thanh, Anh Phạm Hồng Sơn hơn 40 năm trước anh ở chốn này và đầy ắp những kỷ niệm về người và đất, Bình Thanh ơi hai tiếng thân thương, mái nhà sàn năm xưa nơi đây có còn vương khói thuốc, chiếc xe đã đưa chúng tôi đến nơi cần đến. Anh Nguyễn Thế Dân phó chủ chủ nhiệm Chính trị Bộ chỉ huy quân sự tỉnh cho Nguyễn Anh Nông đưa đoàn chúng tôi về với Bình Thanh - nơi ấy tìm lại cội nguồn, tìm lại ngôi nhà xưa nơi có bếp lửa hồng đun nồi cơm dẻo, nướng những củ khoai sắp cháy vẫn bốc mùi thơ. Xóm Giang năm xưa mái nhà sàn thấp thoáng, nay đã thành làng du lịch tập nập khách vào ra. Anh Sơn quên sao được những buổi chiều bộ đội chuẩn bị cho đêm trinh sát luồn sâu, mấy cô sơn nữ đứng đầu sàn nhoẻn cười thích thú. Rồi những tối không trăng hành quân về thị xã tập bài phục kích bắt tù binh, làm ngơ ngác mấy nhà dân gần đó. Rét run người buổi sáng vẫn tắm nước suối đầu thôn, ở đó lòng dân quý bộ đội như con, cơm nắm, muối vừng gói cho cất vào vỏ bi đông khi hành quân diễn tập, ai đó còn dặn dò như mẹ dặn con trước lúc đi xa. Mía tím bố già vẫn đẵn cho làm gậy, vài ba em nhỏ hớn hở bé lá ngụy trang, mong muốn các anh đi dữ ít, nhiều lành. Hôm nay, trở lại bình Thanh, con đường cũ vẫn còn, mái nhà tranh ít thấy, gió mùa đông khe khẽ thổi buốt giá, mấy mẹ già cấy lúa dưới ruộng bậc thang. Cây bưởi rìa đường vàng ruộm những chùm quả chín, đợi chờ bàn tay thiếu nữ chẩy chợ mùa xuân. Một chị trung niên đứng đầu sàn chải tóc, vui vẻ trả lời khi anh Sơn hỏi đường đến cuối thôn. Đến đó anh tìm thêm những kỷ niệm nơi anh đã từng khổ luyện, bãi tập thực hành, sân chơi thể dục... Nơi anh ở là một nhà người Mường trong xóm, đời sống lúc đó tuy nghèo nhưng tình cảm chứa chan. Anh tìm lại nhưng gia đình chuyển đi đâu không rõ, đành gác lại những kỷ niệm về một làng quê miền núi.
          Xe đưa Nguyễn Anh Nông dẫn chúng tôi lên tượng đài người anh hùng đánh xe tăng địch. Cù Chính Lan dáng anh vẫn còn trên tháp pháo, tay ấn lựu đạn vào xe, mắt cháy căm thù. Con đường số 6 năm xưa ghi chiến công anh hùng bất tử đó vẫn cứ quanh co, uốn lượn, nơi đây, được chọn để phục kích xe tăng địch và đây chính là cửa tử đối với quân xâm lược đến đất Hòa Bình. Ngày nay, đã có một con đường chiến lược khác to hơn, bẳng phẳng hơn nối liền  Hòa Bình với Sơn La, Lai Châu. Nhưng ở đây tượng đài anh hùng Cù Chính Lan thì vẫn vĩnh hằng. Cù Văn Mấu tên thật của anh, và anh sinh ra trên quê hương Quỳnh Lưu, Nghệ An Miền Trung nắng lửa, nhưng anh lại hy sinh thần mình cho đất Hòa Bình. 16 ngày sau anh lại cùng đồng đội đánh trận ở Lâm Sơn, Lương Sơn và hy sinh ở đó. Đất Hòa Bình đã nhận anh về với mẹ. Tổ quốc ghi công anh và ghi công đất Hòa Bình.
          Chiếc xe tăng Pháp HápTơRắc số hiệu 528-E5498 đã không còn ở nơi nó bị diệt nữa, nhà bảo tàng của tỉnh đã mang xác xe về lưu giữ cái “chết” của nó cho muôn đời sau. Nó là lịch sử, là nhân chứng, là vật chứng của tinh thần anh dũng đất Hòa Bình và của toàn dân. Ta cứ nghĩ, nếu không có Cù Chính Lan và những người anh hùng khác thì công trình thủy điện mang tầm thế kỷ kia liệu có được mọc lên không? Rồi có một thị xã trẻ trung mang sức bật mùa xuân và một tiềm năng như vùng vàng trắng này hay không? điều đó là có thể. Thời cầm súng đã đi qua, hôm nay không thể không có những công trình mang dấu ấn và lợi ích dân sinh. Hòa Bình ơi ! chúng tôi xin cám ơn người, xin cám ơn những gì người đã giữ lại cho đất nước và cho các thế hệ tiếp sau. Chuyện chiếc tàu chiến Pháp nằm dưới dòng Đà Giang 50 năm mới được thấy mặt trời mà Nguyễn Anh Nông kể lại cũng là minh chứng cho điều ấy. Hòa Bình, nơi giàu chiến công lịch sử và là nơi đóng góp, giữ gìn, tôn vinh lịch sử. Chỉ tính giêng trong cuộc kháng chiến thống thực dân Pháp, Hòa Bình đã đóng góp 955 con em các dân tộc tham gia Quân đội, 1.169.000 lượt người đi Thanh niên xung phong, đi dân công phục vụ kháng chiến. Nhân dân trong tỉnh đã ủng hộ 876 con trâu, bò, gần 600 tấn lương thực, hơn 41 tấn thực phẩm cho Kháng chiến. Quân dân Hòa Bình đã chiến đấu và phối hợp chiến đấu 1780 trận đánh lớn, nhỏ. Diệt và bắt sống 3406 tên địch, phá hủy 18 trọng pháo và vũ khí hạng nặng khác. Bắn cháy, bắn hỏng 16 ca nô, tầu chiến địch, 51 xe vận tải, phá hủy 3 kho quân trang, thu 529 súng các loại và 120.000 viên đạn bộ binh.... Với những thành tích đó, Hòa Bình đã vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng 16 Huân chương Quân công, 23 Huân chương chiến công, 14 huyện, thị xã, xã và 6 cá nhân được phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”,  47 bà mẹ được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Nhà bảo tàng của tỉnh đã lưu giữ được điều ấy, nếu không có các anh thì thế hệ con cháu sau này biết tìm ở đâu, biết có ai, có cái gì làm nhân chứng lịch sử. Rồi họ có thấu được nỗi đau mất nước không? có thấy được kiếp người trâu ngựa như cuộc đời vợ chồng A Phủ hay không? có hiểu được điều đó, thấu hiểu được lịch sử, thì lớp trẻ hô, nay mới có chỗ dựa tinh thần, có đà cất cánh và từ đây mới nảy sinh những chiến công mới, trí tuệ mới và con người mới, chung tay xây dựng Hòa Bình, chinh phục sông Đà. Trong cái sức sống chung đó có Bình Thanh - mảnh đất ghi dấu ấn của huyện thoại anh hùng Cù Chính Lan, hãy bay lên nhé Bình Thanh ơi, Hòa Bình ơi !.

         Nguyễn Văn Lai









T̀NH NGƯỜI BIÊN GIỚI!
Truyện ngắn
          Ngày ấy, Tiểu đội học viên chúng tôi đi thực tập ở một đơn vị đóng quân gần Biên giới Lạng Sơn. Chúng tôi được phân công về một Tiểu đoàn bộ binh đóng chốt tại khu vực gần đường Biên. Từ trung đoàn bộ lên đến chốt cách xa khoảng 25 đến 30 km. Sau khi nhận nhiệm vụ, chiều hôm đó tiểu đội tôi hành quân lên chốt luôn, Tiểu đoàn 6 nơi chúng tôi đến thực tập chốt giữ trên các điểm cao với chính diện rộng khoảng vài ba cây số. Là những học viên sau 4 năm học tập tại trường, chúng tôi đă tiếp thu được một lượng kiến thức quân sự, chính trị tương đối đủ để chỉ huy phân đội nhỏ. Bây giờ đi thực tập tại đơn vị cơ sở, sau đó về trường thi tốt nghiệp quốc gia xong, chúng tôi sẽ trở thành Sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. V́ vậy, lần đầu tiên được đi làm nhiệm vụ với cương vị là cán bộ Trung đội trưởng, chúng tôi vừa mừng, vừa lo, liệu có hoàn thành được nhiệm vụ chỉ huy đơn vị hay khụng?
          Hôm ấy Tiểu đội chúng tôi hành quân theo con đường Lâm nghiệp lên trận địa, vượt qua nhiều đèo dốc, trời lại mưa to như trút nước đường đất sụt lở nhiều, nhưng với sự phấn khởi trước nhiệm vụ mới mẻ, nên Tiểu đội chúng tôi không quản ngại mưa gió và đă hành quân đến nơi đóng quân của Tiểu đoàn trước khi trời tối. Nhưng oái oăm thay, muốn sang trận địa của Tiểu đoàn chúng tôi phải vượt qua con suối phía trước mặt đang ầm ầm tuôn chảy. Bên này suối là một bản người Nùng, cả Tiểu đội dừng lại chuẩn bị vượt suối. Chúng tôi gói ba lô vào ni lông định bơi sang bên kia, nhưng nước chảy mạnh, ḷng suối rộng không tài nào sang được. Hoàng hôn dần dần buông xuống, trời biên giới, bóng tối đến rất nhanh, loay hoay măi chúng tôi vẫn chưa vượt qua được trước ḍng suối đang giận dữ này. Biết được tin có chúng tôi lên thực tập, cán bộ tiểu đoàn cử người ra đón chúng tối, nhưng cũng không sang được suối, đành phải quay lại đơn vị xin ư kiến chỉ huy Tiểu đoàn cho tiểu đội học viên thực tập chúng tôi nghỉ lại bên này suối. Khi nào nước rút, vượt được suối th́ từ lên đơn vị sau. Trong bóng chiều Biên giới, khói bếp đă giăng đầy trên những mái nhà của một bản người Nùng gần đấy. Hoàn cảnh Tiểu đội chúng tôi rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Gạo và tiền ăn nộp hết ở Tài vụ trung đoàn, qua điện thoại cơm chiều đă báo trên Tiểu đoàn nơi chúng tôi sẽ đến thực tập, mà lẽ ra phải có mặt chiều nay. Lần đầu tiên chúng tôi lên Biên giới, địa h́nh mới lạ, người và đất chưa quen, biết làm thế nào đây? Ngủ lại bên bờ suối ư? Không được! Mỗi người một chiếc ni lông và sẽ ướt hết. Ngày mai sẽ ra sao, nếu trời c̣n mưa và nước suối chưa rút. Hơn nữa, chúng tôi đi thực tập có tổ chức, có chỉ huy, cả một Tiểu đội hẳn hoi đấy chứ.
          - T́nh h́nh này phải vào nhà dân ngủ nhờ thôi anh em ạ! Trần Văn Tuynh – một học viên trong Tiểu đội đề nghị như vậy.
          - Đúng đấy, Tôi và những học viên khác cũng đồng thanh đề nghị.
          Tiểu đội trưởng Nguyễn Khắc Tính chần chừ không dám quyết và nói:
          - Thứ nhất là chúng ta không có ai biết tiếng dân tộc, thứ hai là không biết t́nh h́nh an ninh ở đây ra sao? Chúng ḿnh phải cảnh giác các đồng chí ạ!
          Thấy vậy, tôi đề nghị: - Chúng ta cứ vào một nhà dân tŕnh bày rơ với họ, chắc chắn trong nhà sẽ có người nói được tiếng Phổ thông. Hơn nữa đồng bào Biên giới chắc là sẽ tốt nên bộ đội ta mới trụ vững được như vậy chứ. Phải tin vào dân anh em ạ!
          Chúng tôi c̣n đang bàn tán và do dự chưa biết đi hay ở th́ thấy một phụ nữ đi về phía chúng tôi, chị mặc bộ quần áo chàm. Nếu không đến gần chúng tôi không tài nào phân biệt được là già hay trẻ. Đến bên chúng tôi, sau khi lấy chiếc nón lá cọ ra khỏi đầu mọi người đều ngỡ ngàng, hóa ra là một cô gái c̣n rất trẻ. Bằng một giọng lơ lớ cô gái cất tiếng chào:
          - Chào bộ đội ạ! Sao bộ đội lại đứng đây măi thế?
          - Chào đồng bào! Không biết gọi cô gái là ǵ, tôi vội lên tiếng – đồng bào đi đâu về đấy?
          - Cái ḿnh đi nương lấy rau về cho con lợn, thấy bộ đội đứng đây măi, tối rồi c̣n ǵ, thôi về nhà ḿnh nghỉ đi, nước suối to lắm không sang được đâu. Ở dưới suối có nhiều đá ngầm lắm đấy, đừng có lội xuống mà cái suối nó ăn mất bộ đội đấy.
          Chúng tôi nghe giọng cô gái nói vừa buồn cười, vừa thích thú, nhưng không ai dám cười cả. Mọi người nh́n nhau chưa biết xử trí thế nào th́ Trần Văn Tuynh lên tiếng:
          - Chúng ta về nhà cô gái xin ngủ nhờ thôi, Tiểu đội trưởng ạ!
          - Ừ th́ đi, Tiểu đội trưởng đồng ư.
          - Nhà Đồng bào ở đâu, có xa không? Tôi hỏi cô gái.
          - Không xa đâu Bộ đội ạ! Ngay trong bản đây, cái nhà lúc năy bộ đội vừa đi qua đó.
          - Xin cảm ơn Đồng bào! Chúng tôi đồng thanh nói.
          Đeo ba lô theo cô gái về nhà, sau khi chào hỏi gia đ́nh, chúng tôi xin phép được nghỉ trọ qua đêm, ngày mai nước suối rút, sẽ trở lại đơn vị.
          Gia đ́nh bố trí cho chúng tôi ngủ trên một chiếc giường bằng những tấm ván ghép lại rất giộng, đủ chỗ cho cả tiểu đội nằm. Sau khi xếp đặt ba lô gọn gàng, ngoài trời đă tối mịt, trong nhà ngọn đèn dầu sáng lên soi đủ thấy được gia đ́nh nhà chủ, chỉ có hai ông bà và hai cô gắng. Có lẽ cô gái gặp và đưa chúng tôi về nhà là cô em, c̣n cô chị th́ chỉ nh́n chúng tôi một lát rồi bỏ vào buồng riêng. Sau này chúng tôi mới biết th́ ra cô đă có chồng, nhưng theo phong tục người Nùng, gái đă có chồng nhưng chưa có con th́ chưa được về nhà chồng.
          - Bộ đội từ dưới thị xă lên, có lẽ chưa ăn cơm phải không? Đưa gạo đây ḿnh nấu cho. Cô gái trẻ ngượng nghịu nói với chúng tôi như vậy.
          Mọi người lúng túng nh́n nhau chưa biết trả lời như thế nào th́ Tiểu đội trưởng nh́n tôi nháy mắt, v́ tôi là tiểu đội phó nên vấn đề hậu cần trách nhiệm thuộc về tôi. Tôi nhanh nhẩu trả lời:
          - Có lẽ phải nhờ đến em thôi. Nói vậy rồi tôi bước đến chỗ ông bố của cô gái đang ngồi uống nước và nói tiếp:
          - Con chào bố ạ!
          - Chào bộ đội! Mời bộ đội ngồi uống nước với bố!
          - Dạ, con mời bố xơi nước ạ! Bố ơi, con muốn hỏi bố một việc có được không ạ?
          - Bụ̣ đội hỏi ǵ ta?
          - Chúng con muốn vay của bố một ít gạo nấu cơm ăn? Tôi mạnh dạn đề nghị với bố như vậy- Hôm sau lên đơn vị chúng con sẽ mang gạo xuống trả lại cho bố sau.
          - Ồ bộ đội chưa ăn cơm à! Thế th́ gạo của bố vẫn c̣n đấy. Vi à, lấy gạo nấu cơm cho bộ đội ăn với.( Vi là tên cô gái trẻ)
          - Bố cứ cho chúng con vay gạo, chúng con sẽ trả cẩn thận cho bố. Tôi lúng túng đề nghị thêm một câu thừa và lạc lơng như vậy.
          Sau khi ăn cơm, chúng tôi ngồi quây quần bên ấm chè xanh vùng cao nấu cả cọng uống nước và nói chuyện với bố già và cô gái, t́m hiểu được tí chút về phong tục của người Nùng vùng núi Lạng Sơn. Đêm hôm đó, chúng tôi cắt gác cẩn thận, không hiểu lư do ǵ mà ai cũng khó ngủ. Trời vùng cao tuy lạnh, nhưng chúng tôi cảm thấy ấm cún vô cùng khi được ngủ trong nhà dân và có thêm t́nh cảm chân thành của gia đ́nh người đồng bào dân tộc. Ngày hôm sau nước suối rút, chúng tôi đă được đơn vị thực tập, mỗi học viên được điều về một trung đội làm trung đội trưởng. Tôi được về phụ trách một trung đội đóng chốt ở cao điểm 380 thay cho đồng chí trung đội trưởng cũ được cử đi công tác ít lâu. Là tiểu đội phó học viên tôi có trách nhiệm thanh toán số gạo chưa ăn của tiểu đội mang xuống nhà cô Vi hoàn trả cho gia đ́nh. Từ mối quan hệ bước đầu tốt đẹp này nên tôi và các đồng chí trong tiểu đội học viên thực tập thỉnh thoảng xuống nhà Vi chơi, nên t́nh cảm giữa gia đ́nh và chúng tôi, nhất là đối với tôi ngày càng gần gũi, thân thiết. Cô Vi có lẽ cũng mến chúng tôi, nh́n nét mặt của em tôi đọc điều đó. Những lần xuống bản chơi, bố già và Vi vẫn thường múc rượu ( thứ rượu được ủ rất kỹ vừa mới cất) cho chúng tôi uống và hái hoa quả vùng cao cho chúng tôi ăn.
          Trung đội do tôi phụ trách là trung đội độc lập, anh em chiến sỹ nhập ngũ đă được một vài tuổi quân. Họ ở trên Biên giới cũng bằng ấy năm tháng. Nói chung công việc của tôi được suôn sẻ, không có trắc trở cả. Mọi công tác huấn luyện và chỉ huy đơn vị tôi luôn vận dụng linh hoạt, sáng tạo những bài học ở trường nên cũng khá thuận lợi. Ở Biên giới lâu ngày anh em chiến sỹ khao khát t́nh cảm hậu phương, ít được nghe thời sự. V́ vậy, những lúc rỗi răi tôi thường kể chuyện hậu phương, chuyện nhà trường chính quy nơi chúng tôi đang học tập, rèn luyện, thông báo một số tin thời sự mà tôi nắm được cho chiến sỹ nghe, nên dần dần họ rất quư và thường xuyên gần gũi tâm sự với tôi nhiều điều về họ.
          Một buổi chiều, sau khi đi giao ban trên đại đội về, tôi thấy anh em chiến sỹ trong trung đội có mặt đầy đủ cả, trừ một số đồng chí làm nhiệm vụ canh gác. Sau khi chào mọi người nhận tiện đông đủ tôi phổ biến t́nh h́nh nhiệm vụ mới cho đơn vị luôn. Khi tôi phổ biến nhiệm vụ xong, một số chiến sỹ đă vội bê lên bàn những chiếc đĩa hai ngăn đầy thịt thơm lừng, bên cạnh là những bi đông rượu vừa mới mua dưới bản. Tôi ngạc nhiên vội hỏi:
- Thịt thơm, rượu ngon nhiều thế này anh em lấy ở đâu ra thế?
Không thấy ai trả lời, im lặng một lúc, mấy chiến sỹ nh́n nhau rồi một người tên là Hùng lên tiếng:
- Anh Toàn ạ! Từ hôm anh lên đơn vị đến nay, chúng em chưa có ǵ liên hoan đón anh được. Hôm nay mới có điều kiện chúng em tổ chức cải thiện cũng là để liên hoan đón anh luôn một thể.
Thấy ḷng tốt của anh em chiến sỹ, tôi rất cảm động và không nỡ chối từ và thế là chúng tôi liên hoan vui vẻ, 2 đĩa thịt cùng 2 bi đông rượu cạn dần.
- Thịt dê non đấy anh ạ! Lâu lắm rồi hôm nay mới được thưởng thức món này đấy anh Toàn ạ. Uống đi anh!
- Tớ hỏi thật nhé – Chưa phát phụ cấp, thế anh em ḿnh lấy đâu ra tiền mà chiêu đăi ḿnh đấy?
-Trung đội trưởng ơi! Anh không phải lo. Anh về đơn vị mà không có ǵ đón anh, chí ít là vui vẻ một buổi liên hoan th́ chúng em áy náy lắm.
Tôi chân thành cám ơn toàn thể trung đội và tiếp tục liên hoan cho đến khi hết thịt rượu và giải tán. Chiều hôm sau tôi dẫn một phận của trung đội lên tiểu đoàn công tác khi về qua đầu bản đă thấy Vi đứng chờ gặp tôi, với nét mặt không vui, Vi bảo:
-Bố ḿnh bảo bộ đội Toàn vào nhà gặp bố đấy!
Tôi vội giao cho một đồng chí tiểu đội trưởng chỉ huy đơn vị trở về, c̣n tôi cùng Vi đi vào nhà bố già. Trên đường Vi nói nhỏ với tôi:
- Bố em biết hôm qua bộ đội Toàn bắt dê của nhà Vi giết thịt, không xin phép bố. Bố giận lắm đấy, nhưng bố chưa báo cáo thủ trưởng tiểu đoàn đâu, Cán bộ Toàn mau vào xin lỗi bố đi, kẻo bố buồn, bố bảo thủ trưởng đấy vớ.
Tôi giật ḿnh, lạnh toát cả người. Té ra là như thế, thịt dê mà anh em chiến sỹ đăi tôi hôm qua là thịt dê của gia đ́nh Vi. Tôi ngượng chín cả người, nhưng không biết làm thế nào được, đành ấp úng hỏi vội Vi.
Có thật thế không hả Vi, em kể cho anh biết rơ sự t́nh xem nào? Tôi hoảng hốt yêu cầu Vi như vậy.
Vi thong thả kể cho tôi nghe. Nhà Vi có một đàn dê 5 con, trong đó có một con nhỏ nhất bị què, thường thường đi ăn bao giờ cũng về muộn hơn cả đàn, hôm nào bố cô cũng phỉ đi t́m. Chiều hôm qua t́m măi không thấy dê con, nhưng tới khe núi, nơi đơn vị anh đóng quân bố nh́n thấy mấy anh chiến sỹ của bộ đội Toàn đang mổ thịt dê. Bố định báo cáo ngay với cán bộ Tiểu đoàn nhưng biết là bộ đội của đơn vị anh, mấy anh bộ đội đó bố đă nhớ mặt rồi, nên bố chờ gặp bộ đội Toàn để báo cáo đó thôi, bố không muốn bộ đội Toàn bị kỷ luật đâu vớ.
Tôi thầm cảm ơn bố già và nhanh chóng cùng Vi bước vào nhà gặp bố.
- Con chào bố ạ! Tôi vội vàng lên tiếng.
Bố già không nói ǵ cả, làm tôi càng thêm hoảng và không biết điều ǵ sẽ sảy ra tiếp theo.
- Con xin lỗi bố và gia đ́nh! Tôi đến gần bố và nói giọng run run, anh em trong đơn vị con đă biết có lỗi với bố rồi, con thay mặt đơn vị xuống nhà để xin lỗi bố đây.
- Ồ cái bộ đội Toàn đó à! Bất ngờ bố quay lại và nói. Bắt dê của bố rồi bây giờ c̣n xin lỗi nữa à.
Tôi thành khẩn nhận khuyết điểm với bố và gia đ́nh, xin được hoàn trả lại dê cho bố bằng tiền mặt. Bố già dần dần nguôi giận và nói:
- Tao biết bộ đội không có tiền để liên hoan đón khách, lúc tao gặp và nghe mấy bộ đội chiến sỹ mổ thịt dê nói với nhau vậy mà, nên tao không lấy lại dê đó thôi. Nhưng cái bố không được làm thế, không tốt đâu nhé. Của đồng bào phải mua hoặc xin chứ, may mà bắt dê của bố, chứ bắt dê của nhà khác th́ gay go rồi đấy bộ đội Toàn ạ. Con dê của bố đă bị què rồi, bố không tiếc đâu, bố cũng định mổ thịt mời bộ đội Toàn ăn đấy.
Như “Chết đuối vớ được cọc”, tôi vội vàng cảm ơn bố già và Vi rồi xin phép bố trở về đơn vị. Tối hôm đó tôi tập trung toàn trung đội sinh hoạt phê phán gay gắt việc làm trên và bắt những người cầm đầu viết bản kiểm điểm tường tŕnh lại những hành vi sai trái đó. Cuối cùng toàn trung đội đi đến thống nhất trích một phần tiền phụ cấp của chiến sỹ trong trung đội, trong đó có cả của tôi mang đến trả cho gia đ́nh bố già dưới bản. Ngày hôm sau, tôi trực tiếp dẫn một số chiến sỹ chủ mưu gây ra sự việc trên đến gặp gia đ́nh Vi trả tiền và một lần nữa xin lỗi bố. Sau khi nghe tôi đặt vấn đề và xin được trả tiền, bố già nh́n tôi với nét mặt không vui và nói:
- Bộ đội Toàn khinh bố thế. Đă xin lỗi bố rồi th́ thôi chứ, lại c̣n đem tiền đến trả là không tốt đâu vơ. Bố lấy tiền của bộ đội mà làm ǵ? Bố ủng hộ bộ đội Toàn và các chú con dê đó đấy.
Nh́n nét mặt cương nghị của bố già, tôi lúng túng thực sự, chỉ biết mong bố một lần nữa thông cảm cho tôi và đơn vị mà thôi. Bố già lấy rượu mời tôi uống, nhưng tôi đâu c̣n bụng dạ nào mà uống nữa. Tôi chào bố ra về, Vi đi theo và em nói với tôi:
- Cán bộ Toàn chỉ huy bộ đội kém đó! Để chiến sỹ vi phạm kỷ luật dân vận đấy. Nhưng Vi không giận cán bộ Toàn đâu, Vi chào cán bộ Toàn nhé, nhớ xuống nhà Vi chơi nhé, Vi nhớ cán bộ Toàn nhiều đấy. Nói rồi em e thẹn quay về nhà.
Trở lại trung đội, tôi tiếp tục công tác và sẵn sàng chiến đấu với anh em chiến sỹ cho đến hết đợt thực tập. Sự việc đó của trung đội tôi trong đại đội và tiểu đoàn không ai biết cả.
Hết thời gian thực tập, tôi đến chào bố và Vi. Gia đ́nh em tỏ ra quyến luyến tôi lắm, Vi sách một túi Mác cọc (quả Lê) cho vào ba lô tôi và em th́ thầm “Anh mang đi đường ăn cho mát”. Tạm biệt Biên giới, tôi hứa với bố già và Vi khi có điều kiện tôi sẽ lên thăm gia đ́nh và không bao giờ quên được những kỷ niệm về t́nh người biên giới. Nh́n Vi bất giác tôi thấy lúc này em đẹp quá, từ đôi mắt tṛn đen, đến cái miệng nói có duyên, cả bộ quần áo chàm đen em mặc cũng thế, thường ngày tôi thấy b́nh thường mà sao hôm nay tôi thấy em đẹp lạ lùng đến thế. Tôi thầm kêu lên bên tai em: Cám ơn em! Vi đẹp quá! Vi tốt quá! 
          Về trường, tôi vẫn được nhận xét là hoàn thành tốt nhiệm vụ thực tập. Bây giờ tôi đă là Sỹ quan, là cán bộ thực thụ rồi, nhưng tôi vẫn nhớ bài học khi đi thực tập lần ấy. Tôi cứ thấm thía măi, nhân dân ta thật là tuyệt vời t́nh người Biên giới đằm sâu như vậy, làm sao tôi có thể nào quên.
                                                                                      Nguyễn Văn Lai



NHỚ LẮM, CÂY GẠO LÀNG TÔI!
 


          “Cây đa, bến nước, sân đ́nh” là biểu tượng của làng quê Việt Nam, quê hương thân yêu của chúng ta hầu như bất kỳ một thôn, một làng nào cũng có những cây si, cây đa, cây gạo......đó là “quốc túy, quốc hồn” của làng xă Việt Nam. Dưới gốc cây si, cây đa, cây gạo là nơi linh thiêng, nơi thờ thành hoàng, nơi nghỉ mát những buổi trưa hè nóng nực, nơi tránh băo giông, nơi trẻ chăn trâu tụ tập đánh đáo, chơi cù....ở đó c̣n là cột mốc, là “điểm nhấn ” của một làng, mà đi đâu, ở đâu người làng quê vẫn nhớ về một thời tuổi trẻ của ḿnh.
          Làng tôi (Tương Lạc, Hà Phong, Hà Trung, Thanh Hóa) có một cây gạo cổ thụ, khi tôi sinh ra và lớn lên đă thấy cây gạo ở đấy rồi. Cây gạo đứng sừng sững ở “cửa đ́nh” (nhưng khi tôi sinh ra đ́nh làng không c̣n nữa). Cây gạo làng tôi cao và to nhất vùng, đứng từ xa đă nh́n thấy rồi. Làng tôi, xă tôi luôn tự hào về cây gạo ấy. Với con mắt ước lượng của tôi, cây gạo cao khoảng trên một trăm mét, gốc to đến hơn một chục người ôm không xuể, mùa hè cành lá xum xuê, trên cây có rất nhiều chim chóc làm tổ, ở đó có một vài tổ quạ, tổ chim hắc là, c̣n các loại tổ chim chèo bẻo, cà kiểng, chim gáy, chim ngói nhiều vô kể. V́ cây gạo cao và to quá, nên mặc dù có nhiều chim làm tổ nhưng không ai có thể phá được, người lớn c̣n chịu nữa là trẻ con tụi tôi. Nh́n các loại chim to, chim bé làm tổ trên cây, chúng tôi ngước mắt thèm thuồng nhưng đành chịu, chỉ c̣n cách dùng súng cao su bắn ngược lên nhưng ít khi trúng đích, nếu có trúng đạn đuối tầm hiệu quả cũng không cao. Chính v́ thế, trên cây gạo lúc nào cũng ồn ào, tao tác, náo loạn mỗi khi có diều hâu đến. Nhưng lại có một loại chim rất anh dũng, xông ngay vào tử chiến với diều hâu, từng bầy chèo bẻo đoàn kết nhào lao thẳng vào con diều hâu to xác tấn công, trông mới kiêu hănh làm sao. Tuổi trẻ chúng tôi thích nhất là cảnh ấy và cũng rất yêu thích chim chèo bẻo nên không bao giờ bỏ sót cơ hội chiến đấu của loài chim ấy. Có lẽ tính cách của làng tôi cũng được h́nh thành từ bức tranh hoành tráng đó nên trong chiến tranh dân làng đoàn kết chống lại kẻ thù. Biểu hiện rơ nhất trong cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của giặc Mỹ, mặc dù bị bom quân thù tàn phá nặng nề nhưng dân làng tôi đă đoàn kết một ḷng giúp với bộ đội pháo pḥng không chủ lực quật ngă nhiều máy bay của địch tại quê hương. Dân quân xă tôi anh dũng lắm, máy bay Mỹ đến, các O dùng súng trường bắn trả, tiếp đạn cho các trận địa pháo pḥng không của bộ đội, thay thế pháo thú bị thương tiếp tục bắn trả máy bay quân thù, huyền tích đó lịch sử quê hương đều ghi và ḷng dân c̣n nhớ măi.
          Tháng ba, cây gạo làng tôi nở hoa như một bó đuốc khổng lồ, từng bông đại đóa nở bung, mầu đỏ rực như thắp lửa. Trên cây chim chóc vào mùa sinh sản, ríu rít ca vui. Tụi trẻ chăn trâu chạy nhảy tung tăng dưới gốc cây gạo, ngửa mặt bắn chim, hứng đón những bông hoa gạo xoay tṛn rơi xuống. Cuối mùa, những bông hoa gạo roi lă tră, nh́n xa như những tàn lửa sáng rực của những ngôi sao băng rơi từ ngọn cây xuống gốc, tạo cảm giác tiếc nuối không nguôi. Những người xa quê trở về khi mùa hoa gạo đỏ cứ muốn đứng lặng ngắm măi những bông lửa rơi rơi mà nhớ về một thời tuổi trẻ buồn vui của ḿnh. Thế mới biết quê hương là thiêng liêng quá, quê hương là bông hoa gạo rơi, là đầy trời tiếng chim ca hót, là sao mà quên được hỡi người.
          Cây gạo là biểu tượng của làng, khi quê hương chưa phát triển, nhà cửa cao tầng chưa mọc lên san sát như bây giờ, từ xa nh́n thấy cây gạo là biết rằng nơi ấy là làng Kéo – cái tên cúng cơm từ đời xa xưa ông bà đă đặt tên cho làng tôi như vậy. Chẳng hiểu ư nghĩa của cái tên này như thế nào mà ông cha lại lấy nó để đặt tên cho làng, có lẽ đây chính là nơi “đất lành chim đậu”, mảnh đất phù sa sông Lèn (một nhánh sông chính của sông Mă) đă là nơi “chim đậu” của bao lớp người đi trước lập nên và xây dựng làng quê yêu thương này. Người đời sau chúng tôi cứ hiểu rằng “Làng Kéo” tức là nơi hội tụ, nơi kéo về những ǵ tinh tú nhất, nơi thu hút t́nh người, nơi mang đến những tấm ḷng thủy chung, yêu quên hương, đất nước dưới gốc cây ngàn tuổi này chăng.
          Dưới tán của cây gạo làng tôi là một khoảng đất bằng phẳng với lớp cỏ gà dầy mịn, thứ cỏ mà tụi trẻ chăn trâu chúng tôi vẫn thường ngắt ngọn để chơi chọi gà khi trước. Nơi đây một thời là trạm gác dân quân, đánh kẻng báo động có máy bay Mỹ xâm phạm làng quê. Từ cây gạo làng tôi đến cầu Đ̣ Lèn – một trọng điểm giao thông đánh phá của không quân địch chỉ khoảng 1km. Ngày ấy phải chăng là điều kỳ lạ: Cả làng tôi từ đồng mạ, bờ sông đến đường thôn, ngơ xóm, đâu đâu cũng bị bom Mỹ cày xới tơi bời, thế mà cây gạo cao như thế, to như thê vẫn đứng sừng sững, xanh tốt đến diệu kỳ, cả khu đất bằng gần gốc gạo cũng không hề hấn ǵ. V́ vậy, băi bằng dưới gốc gạo là nơi xă đội dùng làm chỗ để tập hơp thanh niên giao nhận quân, tập quân sự, sau này chúng tôi c̣n dùng làm nơi tập thiếu nhi, nơi nghỉ mát mỗi khi đi làm đồng về....Cây gạo là niềm tự hào, nơi chở che, nơi cho bóng mát, nơi giao lưu của lứa tuổi học tṛ.
          Thế mà, cây gạo làng tôi giờ này không c̣n nữa, một trận lụt to hay sự ô nhiễm môi trường của thời mở cửa đă cướp mất cây đi rồi. Người xa quê trở về không c̣n thấy cây gạo nữa, sự nuối tiếc dâng trào và như bóp nghẹt trái tim của những đứa con yêu quê hương. Đă không c̣n cái mốc để định hướng mỗi khi về làng, không c̣n những mùa hè thắp lửa đầu thôn nơi ngọn cây như trước. Dù thế nào th́ niềm tự hào về làng quê, nơi một thời tuổi trẻ với những mái tranh nghèo mà anh dũng biết bao. Làng tôi cũng như bao nhiêu làng quê khác đă chiến thắng cái nghèo, cái dốt để vươn lên. Hôm nay, bộ mặt của làng tôi đă đổi mới, con đường bê tông chạy giữa làng hối hả nhịp bước chân và ḍng xe cộ, mang đến những ấm no, hạnh phúc cho mọi nhà.
                                                                             Nguyễn Văn Lai


KỶ NIỆM NHỎ VỀ ĐÀI

          Theo tụi, một trong những phát minh vĩ đại nhất của loài người đó là phát minh ra Rađiô. Ở Việt Nam, đài là một trong những phương tiện thông tin đại chúng có đóng góp rất quan trọng và to lớn trong đời sống chính trị xă hội. Đặc biệt, trong thế kỷ 20, Đài Tiếng nói Việt Nam lại càng có vai tṛ cực kỳ quan trọng, góp phần đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH đến thắng lợi hoàn toàn. Tôi là người sinh ra và lớn lên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được chứng kiến những gian khổ ác liệt, cũng như chiến thắng lẫy lừng của quân và dân ta trên các trận tuyến của 2 miền Nam, Bắc. Nói là được chứng kiến, nhưng thực tế tôi chỉ “mục sở thị” khi giặc Mỹ dùng không quân đánh phá miền Bắc, mà trực tiếp là ở khu vực cầu Đ̣ Lèn – Thanh Hóa quê hương tôi mà thôi, c̣n lại là nhờ Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin, chắc có lẽ nhiều người cùng thời cũng như tôi mà thôi. Say sưa nghe đài, khát khao có một chiếc đài để nghe tin tức là một thực tế bi hùng của cả đất nước ta thời đó. Nói về Đài Tiếng nói Việt Nam và chiếc đài bán dẫn chắc hẳn nhiều người cũng có những kỷ niệm vui buồn khác nhau. Riêng tôi, tôi có một vài kỷ niệm nhỏ với Đài mà đến bây giờ thời đại thông tin bùng nổi và phát triển tôi vẫn không bao giờ quên được.
          Vẫn biết những năm 60 của thế kỷ trước, có một chiếc đài bán dẫn là một tài sản rất quư và hiếm mà ở nông thôn như gia đ́nh tôi ít nhà có được, nhưng ai cũng có những ước mơ và mong muốn, tôi không nằm ngoài số đó. Lúc ấy, tôi c̣n bé, tuổi thơ được sống và học tập dưới chế độ XHCN nên nghe Đài Tiếng nói Việt Nam là một niềm đam mê và thích thú. Ở làng, gia đ́nh có một chiếc đài riêng là rất oách và có đông khách đến chơi, uống nước chè xanh, nghe đài hát. Cũng giống như những đứa trẻ khác, ngoài giờ học hành ra, buổi tối chúng tôi thường tụ tập ở sân kho Hợp tác xă, dưới chân cột điện bằng tre có chiếc loa công cộng để được nghe đài, thích nhất là được nghe những ca khúc viết về thiếu nhi của nhạc sỹ Phong Nhă. Tôi là một đứa trẻ ít hiếu động, không nghịch ngợm như chúng bạn, nên chủ yếu là ngồi dưới gốc cột điện nghe đài và tôi đă chiếm được một góc của chân cột điện ấy. Tôi kê mấy ḥn gạch làm chỗ riêng cho ḿnh, không cho ai xâm phạm. Chính điều ích kỷ đó đă dẫn đến cho tôi một bài học và kỷ niệm nhớ đời khó quên. Vốn say mê nghe đài, vị trí ngồi của tôi là “lănh thổ thiêng liêng và bất khả xâm phạm” của ḿnh, nhưng bọn trẻ th́ đâu có theo ư muốn của tôi, chúng thường quấy  phá và tranh giành với tôi như cơm bữa. Nhiều lần tôi thua, bị mất chỗ, nên tôi rất tức tối và nghĩ rằng ḿnh phải bảo vệ bằng được “lănh thổ” của ḿnh. Tôi nhờ ông chú ruột làm cho một khẩu  súng phốc bắn trái xoan thật tốt. Tối hôm đó, tôi đang ngồi trên “lănh thổ” nghe đài th́ những đứa trẻ cùng lứa kéo nhau đến đùa nghịch quấy phá, cướp chỗ của tôi, bực ḿnh, sẵn cây súng phốc tôi nhằm thẳng vào mặt một tên là Nhượng bắn mạnh, một tiếng “ái” vang lên, ngay sau đó tôi liền hứng chịu nửa ḥn gạch vào đầu, máu chảy lênh láng, may thay, có người đưa về nhà gọt tóc, dịt thuốc lào, cầm máu. Một tháng sau tôi mới lành vết thương và không bảo vệ được “lănh thổ” của ḿnh nữa, mà chỉ lẳng lặng đứng nép bờ tường sân kho nghe ca nhạc từ chiếc loa công cộng mà thôi.
          Kỷ niệm thứ hai tuy không lớn nhưng gợi lại cho tôi nỗi buồn của thời bao cấp. Đó là vào những năm đầu của thập niên 80, thế kỷ 20, lúc này tôi đă là chiến sỹ trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Khi được nghỉ phép thăm nhà, gia đ́nh tôi làm nông nghiệp, năm ấy đầu tiên khoán sản được mùa, nên nhà tôi thu hoạch khá hơn những vụ trước. Nếu tính toán số thóc để cả nhà ăn kế vụ tới th́ vẫn c̣n thiếu, nhưng bố mẹ tôi vẫn quyết định sắm một chiếc đài để nghe. Muốn mua đài nhưng chẳng có ở đâu bán, mà có bán giá cũng rất đắt. Với điều kiện kinh tế thiếu ăn như gia đ́nh tôi th́ không thể nào có tiền mặt để mua nổi chiếc đài. May thay, làng bên có chị Hạnh là bạn học của chị gái tôi, hiện là một nhân viên bán hàng ở bách hóa huyện, chị Hạnh đă nhận lời mua giúp nhà tôi một chiếc đài bán dẫn nhăn hiệu Véc 206 của Liên Xô, nhưng không phải mua bằng tiền mặt mà theo phương thức đổi thóc lấy đài. Gần 3 tạ thóc để đổi một chiếc đài Véc, bố mẹ tôi phải bấm bụng xuất thóc ra. Tôi giúp gia đ́nh chở gần 300kg thóc trên chiếc xe cải tiến ́ ạch ra cửa hàng bách hóa huyện. Chờ măi mới đổi được mang đài về, cả nhà hân hoan reo mừng nhưng khi mở đài th́ đài chẳng nói được v́ không có pin, 6 quả pin để lắp vào chiếc đài Véc 206 nhà tôi đào đâu ra lúc bấy giờ. Mua đài về cả tháng mới đủ mua pin lắp vào nghe, rồi chỉ được ít bữa là hết pin. Thế rồi chiếc đài được lau bóng loáng đặt ngăn nắp trên bàn trông rất oai vệ nhưng không kêu được. Cái khó ló cái khôn, bố tôi học được cách làm pin nước, từ đó dưới gầm giường nhà tôi đầy những lọ nhỏ và những cục pin thối, thế nhưng đài lại nói được, ai nấy trong gia đ́nh đều phấn khởi hẳn lên, tối tối tập trung nghe đài.
          Kỷ niệm vui nhất của tôi cũng là từ nghe đài. Khi tôi đi học sỹ quan, là học viên tôi bắt đầu viết “ Chuyện kể ở đại đội” và mạnh dạn gửi về “ Chương tŕnh phát thanh Quân đội Nhân dân – số 58 phố Quán Sứ – Hà Nội”. Bài gửi đi rồi là sự chờ đợi, nhưng chỉ là chờ đợi mong manh. Cuộc đời học viên thời ấy chẳng kiếm đâu ta một chiếc đài bán dẫn mà chỉ nghe tin tức và ca nhạc qua loa công cộng theo thời gian quy định. Thế mà tôi vẫn cố gắng phục nghe bằng được bài viết của ḿnh trên đài. Hôm đó, sau khi điểm quân số trung đội xong, khi có tiếng c̣i “tắt đèn đi ngủ” của trực ban đại đội thổi vừa rứt, tôi vội mắc màn và lẳng lặng rời pḥng ngủ đến phía sau nhà của chỉ huy đại đội, nơi đó có chiếc đài bán dẫn của anh Minh- Chính trị viên đại đội đang phát chương tŕnh Quân đội nhân dân để lén nghe. Vừa lúc đó đến tiết mục “Chuyện kể ở đại đội”, giọng anh Phạm Đông vang lên “Các đồng chí a!”, tôi nghe đúng là bài “T́nh người biên giới” tác phẩm đầu tay của tôi đang phát trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Tôi vui mừng quá, đứng chôn chân tại chỗ thưởng thức dần sản phẩm tinh thần của ḿnh qua từng giọng đóc của người nghệ sỹ mà không hay biết rằng có người đang theo dơi từng hành động của ḿnh. Họ tưởng tôi là một tên trộm đang có hành động lén lút ǵ đây? Tôi giật bắn người khi bất ngờ có tiếng quát “Ai?’, mấy phút sau tôi mới b́nh tĩnh trở lại ấp úng trả lời câu hỏi của đồng chí trực ban đại đội. May thay, sự trong sáng của ḿnh được minh chứng bằng giọng đọc của anh Phạm Đông đang kết thúc chương tŕnh “Chuyện kể ở đại đội”, lúc ấy mọi sự nghi vấn của đồng chí trực ban mới không c̣n. Bữa đó, tôi phải khao đồng đội một chục điếu thuốc lá cuốn và một bi đông nước chè móc câu, như thế cũng là quư lắm rồi. Thật là hú vía!
          Lời bài thơ trong sách giáo khoa thủa học tṛ về Đài Tiếng nói Việt Nam tôi c̣n nhớ măi:
                   “Lời Tổ quốc êm êm như tiếng Má
Bên vành nôi ru giấc ngủ êm thơ”
          Dẫu rằng trên truyền h́nh phát nhiều chương tŕnh, nhiều kênh với lượng thông tin ngày càng phong phú và đa dạng, đủ để cho nhiều người thưởng thức và học có thể quên Đài, nhưng đối với tôi, nghê đài vẫn là một thói quen, hay nói đúng hơn là một đam mê. Tôi nói không ngoa, hiện nay tôi có đến 2 chiếc đài bán dẫn loại nhỏ, một chiếc luôn để ở đầu giường và một chiếc bé xíu tôi luôn mang theo trong túi áo để thường xuyên được nghe đài.
          Những kỷ niệm vui buồn của đời người th́ nhiều vô kể, nhưng có những kỷ niệm không bao giờ quên về đài th́ tôi luôn nhớ măi không nguôi. Một vài ḍng ngắn ngủi, đơn sơ này âu cũng là nỗi niềm và xin gửi ḷng biết ơn đến các anh, chị “Nhà Đài”, mong sao Tiếng nói Việt Nam măi măi vang vọng trong mỗi trái tim của hơn 80 triệu người trên đất nước thân yêu của chúng ta. Hăy tin rằng những thính giả như tôi vẫn hằng ngày say mê nghe và làm theo Đài nhiều lắm.
          Đoạn bút này kính dâng lên Đài Tiếng nói Việt Nam nhân dịp Đài kỷ niệm 60 năm Ngày truyền thống vẻ vang của ḿnh

Nguyễn Văn Lai


CÂU HỎI CẦN SỰ TRẢ LỜI
          Tôi là học viên của Trường sỹ quan “Đại Bác” mới ra trường với quân hàm thiếu úy mới tinh. Tôi được điều về một Trung đoàn bộ binh đóng trên biên giới phía Bắc.
          Là học sinh phổ thông vào học nên khi ra trường tôi còn trả lắm. 21 tuổi được đeo quân hàm sỹ quan quân đội nhân dân Việt Nam, tôi thấy oai lắm. Có phần nào hơn hẳn bạn bè cùng lứa. Được điều về d4 hỏa lực của trung đoàn làm trung đội trưởng trung đội ĐKZ 82, tôi vui vẻ nhận nhiệm vụ mà trong lòng đầy lo lắng, liệu có hoàn thành nhiệm vụ không đặc biệt là nhiệm vụ huấn luyện. Bởi cái loại pháo ĐKZ này ở trường tôi đã được học bao giờ đâu. Ở trường chúng tôi chủ yếu là học các loại pháo có xe kéo hay những dàn hỏa tiễn hiện đại chứ cái loại pháo đo cùng này chỉ có nhắc đến hoặc học lướt qua chứ có nắm được gì đâu. Tôi lo lắng thật sự. Sự lo lắng này tôi vẫn dấu không dám nói với cấp trên. Bởi vậy cán bộ trung đoàn cũng tưởng rằng học ở Trường pháo binh ra thì chúng tôi thành thục được hết tất cả các loại pháo kể cả pháo đi cùng như cái anh ĐKZ này vậy thật là gay go và phức tạp khi về đến đơn vị cũng là lúc đơn vị đang tiến hành huấn luyện để kết thúc giai đoạn 2 và cũng là kết thúc năm huấn luyện 1990. Tôi được giao nhiệm vụ và bắt tay vào huấn luyện ngay. Tôi tự cảm thấy mình có thể không hoàn thành được nhiệm vụ huấn luyện lắm. Tôi lo lắng và đề nghị ct’ cho tôi chuẩn bị bài giảng trong vài ba ngày. Được ct’ đồng ý tôi lao vào đọc tài liệu về loại súng ĐKZ 82 này. Kết hợp với sự theo dõi đồng chí đội huấn luyện và các khẩu đội luyện tập dần dần tôi cũng nắm bắt được tính năng, cấu tạo cũng như thao tác súng pháo và tôi bắt tay vào huấn luyện.
          Tuy còn nhiều bỡ ngỡ nhưng do được rèn luyện ở trường nhiều về các loại pháo nên tôi tiến hành huấn luyện cũng khá trôi chảy mà lại có bài bản nữa. Đồng chí ct’ khen tôi. Cứ như vậy theo đà ấy tôi vừa học vừa làm và huấn luyện trung đội tôi ngày càng có chất lượng, đặc biệt là khâu huấn luyện cơ bản tôi chú trọng nhiều rèn luyện đơn vị thật thành thục. Còn nội dung chỗ nào thiếu sót tôi bổ sung dần dần trong quá trình luyện tập. Kết quả kiểm tra trong đại đội, trung đội tôi được điểm cao hơn và xếp thứ nhất và là trung đội được chọn đi dự hội thao sư đoàn. Đ/c trung đoàn trưởng trực tiếp đến giao nhiệm vụ cho tôi.
          - Đồng chí Sơn - Trung đoàn giao nhiệm vụ cho trung đội, đ/c ôn luyện thật tốt để đi hội thao sư đoàn về hỏa lực, cố gắng phát huy để giành giải nhất trong hội thao góp phần tô thêm truyền thống anh hùng của trung đoàn, đồng chí vỗ vai tôi động viên.
          - Dạ ! Báo cáo đại đội trưởng em sẽ cùng anh em cố gắng hết mức ạ. Trung đoàn trưởng cứ yên tâm. Các loại pháo to còn khó chứ cái loại pháo nhỏ như ĐKZ này chắc chắn trung đội em sẽ hoàn thành nhiệm vụ mà trung đoàn giao.
          - Tốt ! Tốt. Chúng tôi tin tưởng vào đồng chí !
          Tiễn trung đoàn trưởng về rồi. Từ hôm đó tôi cùng với trung đội tích cực luyện tập, tranh thủ mọi thời gian chuẩn bị cho hội thao, nắm lại thật chắc cả phần lý thuyết và thực hành.
          Thế rồi khi hội thao về kết quả thật là mĩ mãn như ý muốn của mọi người. Trung đội tôi đứng thứ nhất trong tất cả các trung đội tham gia hội thao. Tôi tự hào lắm và tự nghĩ mình là sỹ quan trẻ vừa ra trường mà đã làm tốt được nhiệm vụ huấn luyện lần này rồi thì sang mùa huấn luyện sau chắc chắn là nhàn lắm đây, với loại pháo ĐKZ này không phức tạp lắm đâu. Vì vậy tôi cũng chẳng tìm hiểu nhiều hơn về loại pháo này nữa.
          Chưa kịp “xả hơi” tôi lại được nhận nhiệm vụ tiếp. Trung đoàn giao cho tôi nhiệm vụ huấn luyện về hỏa lực cho trung đội tự vệ của nông trường chè kết nghĩa với trung đoàn. Tôi vui vẻ nhận nhiệm vụ và tin tưởng mình sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ này. Tôi nghĩ huấn luyện cho tự vệ chắc không đòi hỏi tỷ mỷ và chu đáo như huấn luyện cho bộ đội đâu mà sợ. Hơn nữa với loại pháo ĐKZ này tôi thành thạo lắm rồi, hội thao nhất sư đoàn kia mà chắc căn cứ từ đấy nên trung đoàn mởi cử tôi đi huấn luyện cho tự vệ. Tôi tự hào lắm chứ !
          Ngày huấn luyện là một ngày đẹp trời. Mùa đông nhưng không lạnh lắm. Tôi diện bộ K82 mới được phát chân đi giày da mới cứng, đầu đội mũ mềm. Trên vai có đỏ rực đôi quân hàm thiếu úy mới bóc tem. Trung đội tự vệ nông trường mà tôi huấn luyện hầu hết là nữ. Lúc tôi đến phút đầu hết sức sững sỡ và ngượng ngùng đến khó chịu. Nhưng tôi vội vàng chấn chỉnh được ngay. Mặc dù bên tai vẫn nghe tiếng xì xào của những cô gái như trêu tôi.
          - Ôi ! cán bộ gì mà trẻ thế.
          - Giáo viên mới toanh chúng mày ạ.
          - Anh này mới lắm, chắc mới về trung đoàn.
          Thực tình khi giảng tôi cũng có hơi run. Nhưng khi vào bài “Binh khí pháo ĐKZ” do sự hứng khởi và sự nắm chắc nội dung bài của tôi nên tôi giảng trôi chày lắm. Cứ như vậy toi giới thiệu hết phần binh khí của súng, tôi giới thiệu sang phần tác dụng, tính năng, cấu tạo đạn cầm mô hình quả đạn ĐKZ lên vừa chỉ tôi vừa giới thiệu. Đạn ĐKZ cấu tạo bên trong theo hình phễu để tập trung khí thuốc xuyên thủy đốt cháy mục tiêu. Nó có thể tiêu diệt được xe tăng, xe bọc thép, tầu xuồng, ca nô, máy bay đỗ tại chỗ lô cốt hầm ngầm của địch ...
          Dưới hàng tự vệ có nhiều tiếng xuýt xoa kinh ngạc.
          - Khiếp quá, pháo gì mà hiện đại thật.
          - Thế này mà bắn vào người cháy thực, bắn vào xe tăng thì chảy thành nước hết.
          Tôi vẫn tiếp tục giới thiệu tiếp bài, mọi người nhìn súng pháo và nhìn tôi tròn mắt tiếp thu. Bài giảng về loại vũ khí hiện đại này, nhìn hàng quân tôi tự hào hơn và lấy lại phong độ tự nhiên hẳn. Và bài giảng của tôi như có phần sinh động hơn, tôi kết thúc phần giảng bài. Tôi hỏi mọi người xem có ý kiến gì không. Hỏi thì hỏi thế nhưng tôi tự tính rằng chắc sẽ không có ý kiến gì. Nên tôi càng nhấn mạnh “có ai ý kiến gì không ?. Bất ngờ một cánh tay của một cô gái trẻ giơ lên xin ý kiến. Cô gái ngập ngừng đề nghị:
          - Xin đ/c bộ đội giáo viên cho em hỏi sao đạn ĐKZ em không thấy có vỏ đạn như pháo phòng không 37 ly các em được học. Câu hỏi bất ngờ làm tôi lùng túng thực sự. Một phút mất bình tĩnh tôi không ngờ câu hỏi hết sức bình thường mà lại bí đối với tôi như vậy. Vội vàng lấy lại bình tĩnh, tôi trở lại vị trí của mình. Còn đồng chí nào hỏi gì nữa không ?
          - Hết, hết các cô gái trả lời. Tôi bắt đầu gỡ bí cho mình.
          - Câu hỏi của em, à xin lỗi của đ/c rất tốt nhưng là câu hỏi cần được giải thích thật cụ thể thì các đồng chí mới rõ được. Vì vậy ngày mai sang bài động tác thu dùng pháo tôi sẽ trả lời cụ thể tỷ mỉ còn hôm nay thời gian còn lại chúng ta triển khai ôn luyện theo nội dung được học, yêu cầu học đến đâu nắm chắc đến đó. Có gì chưa hiểu tổng hợp hỏi giáo viên vào đầu giờ ngày mai.
          Xong buổi học đầu ra về lòng tôi nặng chĩu. Mình chưa đáp ứng được bài giảng. Tưởng rằng là tốt đẹp nhưng thực tế thì ngược lại. Câu hỏi của cô gái tự vệ môi trường bản thân tôi hiện tại chưa thể trả lời được phải xem lại tài liệu, hỏi thêm cán bộ có kinh nghiệm mới giải quyết được đây. Vừa đi tôi vừa suy nghĩ, chỉ có tối hôm nay phải tìm cho ra câu hỏi này. Tưởng rằng như đơn giản nhưng đâu phải thế. Đúng thật các loại pháo khác có vỏ đạn riêng ĐKZ, B40 lại không có vỏ đạn, điều này là hiển nhiên rồi nhưng giải thích ra sao đó mới là điều cần thiết.
          Tôi lên hỏi đồng chí đại đội trưởng thì đồng chí đại đội trưởng cũng chỉ trả lời chung chung mà chưa giải thích được bởi vì rằng đồng chí đại đội trưởng trưởng thành từ chiến sỹ lên chưa qua trường lớp nào nên sự trả lời cho rõ ràng câu hỏi đó là khó khăn. Bởi vậy, chỉ có tôi vì tôi qua trường cơ bản lại có kiến thức về pháo. Lẽ nào tôi chỉ trả lời chung chung thôi à, phải nghiên cứu tỷ mỉ và trả lời cặn kẽ để các cô tự vệ hiểu.
          Tôi xem lại tài liệu cũng chẳng thấy nói gì hơn sov ới những gì tôi đã truyền đạt cho bộ đội và tự vệ. Tôi lục lại trí nhớ của mình và tự so sánh giữa những khẩu pháo tôi đã được học và loại pháo ĐKZ 82 này. À đây rồi có lẽ là như thế này đây. Các loại pháo lớn là loại pháo có rãnh xoắn khi đạn bắn đi, đầu đạn chuyển động trong nòng pháo bởi có rãnh xoắn và tác dụng của nòng pháo, định hướng bay cho đầu đạn làm cho đầu đạn quay quanh trục của nó. Riêng loại pháo ĐKZ là loại pháo nòng trơn khi bắn dùng phản lực của khí thuốc phát ra phía sau, đẩy đạn bay về phía trước nên cấu tạo đạn phải như vậy, không có vỏ đạn mà có ống thuốc phóng, phải có cánh đuôi để ổn định đường bay của đạn. Nhìn chung, các loại pháo nòng tròn đều phải có cánh đuôi và ống thuốc phóng mà không có vỏ đạn. Tôi lập luận như vậy và tự bằng lòng với sự giải thích của mình.
          Ngày hôm sau tôi trả lời và giải thích với trung đội tự vệ như vậy, tôi vững tin hơn cho phần giới thiệu tiếp theo của bài giảng.
          Từ hôm đó tôi nghĩ rằng đứng bao giờ chủ quan trước một vấn đề gì dù là nó đơn giản hay phức tạp. Muốn làm một cái gì phải có sự chuẩn bị chu đáo, tỷ mỉ, có nghiên cứu đặc biệt là trong huấn luyện quân sự càng phải chu đáo tập trung hơn. Chính những cô gái tự vệ nông trường đã dạy cho tôi một bài học thấm thía và thiết thực trong đời sỹ quan trẻ của tôi. Tôi còn phải học nhiều hơn nữa, không những học trong Nhà trường mà học cả ở những người chiến sỹ bình thường.



SAU LẦN ĐI THỰC TẬP
          Tôi là học viên năm thứ 3 học chuyên ngành Bộ binh cơ giới. Mùa xuân năm ấy chúng tôi nhận lệnh đi thực tập tại một sư đoàn bộ binh cơ giới, hành trang ra đi của chúng tôi là toàn bộ những kiến thức đã được học ở trường. Sau gần 3 năm học những kiến thức mà tôi thu lượm được đủ tạm để chỉ huy 1 trung đội Bộ binh cơ giới xe 5MP. Bởi vậy chúng tôi phấn khởi lên đường.
          Đến đơn vị thực tập tôi được phân công về đơn vị cơ sở đúng theo cương vị và ngành học. Sau khi giao nhiệm vụ cho tôi, đồng chí Đại đội trưởng nơi tôi thực tập nói:
          Trong thời gian thực tập ở đơn vị này Thành sẽ được điều về trung đội 3, ở đây có trung úy Bình là trung đội trưởng nhưng hiện nay đ/c Bình được cấp trên điều đi công tác khoảng 1 thời gian nên thiếu bt’ chính thức. Thành về đấy nhanh chóng nắm đơn vị và tổ chức huấn luyện quản lý đơn vị cho tốt. Tất nhiên sẽ gặp những khó khăn nhất định, nhưng chỉ huy Đại đội sẽ theo dõi và giúp đỡ thêm, có gì khó khăn đồng chí cứ mạnh dạn đề xuất. Đặc biệt là tới đây đơn vị sẽ diễn tập nên phải chuẩn bị cho chu đáo. Tôi vui vẻ nhận lời nhưng không khỏi lo lắng, làm sao đây để chỉ huy trung đội hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ thường xuyên và trong diễn tập. Nhất là ở 1 trung đội mà lại không có trung đội trưởng chính thức.
          Về đến trung đội, tôi đem hết khả năng của mình để chỉ huy quản lý đơn vị. Đồng thời tranh thủ thời gian nắm lại những kiến thức đã được học mà vận dụng cho suôn sẻ. Do có cố gắng nên công việc có nhiều chiều hướng tốt đẹp. Tôi nghĩ cứ thế này có lẽ 3 tháng thực tập tôi sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ mà thôi, bởi trong huấn luyện tôi đã tổ chức huấn luyện tốt cả về kỹ thuật và chiến thuật bằng chứng là đ/c Đại đội trưởng có lần kiểm tra tôi huấn luyện đã khen “Đ/c Thành huấn luyện tốt nắm chắc nội dung, có phương pháp khá”.
          Cuối giai đoạn huấn luyện cấp trên tổ chức diễn tập chiến đấu tấn công. Mọi bước tổ chức diễn tập cơ bản giống như ở trường mà tôi được học. Có công tác chuẩn bị, có trinh sát địa hình, đường cơ động ... Khi đi trinh sát đường cơ động từ vị trí xuất phát xung phong đến khu vực phòng ngự của địch ở cao điểm 53, ở trung đội 3 của tôi tương đối thuận lợi. Đến một khu đồi thấp tương đối bằng phẳng, có lẽ dân mới cày lên chưa kịp trồng hoa mầu gì nên tiện triển khai đội hình xe. Nắm được như vậy nên tôi yên trí về chuẩn bị các mặt khác cho trung đội để 3 ngày sau đơn vị sẽ thực hành tổ chức tiến công.
          Thật là tai hại ngày ngày thứ 2 đơn vị tiến hành tập tổng hợp có bắn đạn thật. Sáng sớm hôm đó, xe chúng tôi tiếp cận đến vị trí xuất phát xung phong thì đường cơ động của các xe trong trung đội phía trước bãi đất bằng phẳng ấy bây giờ là cả 1 ruộng lạc và ngô đang lên mơn mởn của dân đã trồng, mà xe của trung đội tôi phải vượt qua. Gay quá nhỉ nếu vòng bên phải thì phương suối xe không qua được, nếu vòng bên trái thì sang phạm vi trung đội bạn đồng thời lại xa không kịp thời gian nổ súng. Tôi đang đắn đo suy nghĩ có cho xe vượt qua hoa mầu của dân hay là không, thì có 2 bác nông dân ra phía trước đội hình ngăn không cho xe vượt qua ruộng mầu của họ. Mà thời gian xuất phát xung phong sắp đến, thấy bí tôi nói liều với họ:
          - 2 bác tránh ra cho xe chúng tôi làm nhiệm vụ.
          - Xe các chú không được đi qua ruộng mầu của chúng tôi, muốn qua thì đi đường khác.
          - Chúng tôi đang diễn tập, việc quân sự dỡ nhà cũng phải dỡ chứ hoa màu là gì ? - Tôi xẳng giọng.
          - Chúng tôi không cho đi qua. Bây giờ là thời bình chứ có phải chiến tranh đâu làm gì có giặc giã mà phá hoại sản xuất, làm gì cũng phải nghiên cứu chứ. Hoa màu của dân là mồ hôi nước mắt chứ, cứ phá bừa mà được à ! Sao không báo trước cho chúng tôi.
          Gay go quá, tôi vừa nhảy ra khỏi xe để định gặp xin ý kiến Đại đội trưởng may thay lúc ấy anh đã có mặt cả với đ/c phó chính trị đại đội. Cả 3 chúng tôi tiến lại chỗ 2 bác nông dân.
          - Trước hết chúng cháu xin lỗi 2 bác và bà con vì không thông báo kịp thời nên mới có cơ sự này, mong các bác thông cảm. Hôm trước đi trinh sát các cháu vẫn chưa thấy có hoa màu gì trên quả đồi này nên mới xác định đi cho xe qua ruộng mầu này. Nhưng nay vì nhiệm vụ gấp nên 2 bác cứ cho xe chúng cháu đi qua sau đó chúng cháu sẽ đền bù có thể bằng tiền hoặc chúng cháu trồng lại cẩn thân mầu cho các bác ở những chỗ hư hỏng.
          - Có thế chứ nói như chú thì được. Vì nhiệm vụ của các chú chúng tôi có tiếc gì nhưng cái gì cũng phải cẩn thận tỷ mỉ chu đáo. Bây giờ các chú cứ cho xe qua đi rồi hôm sau chúng tôi sẽ nói chuyện.
          Cùng lúc đó tín hiệu xung phong của cấp trên phát ra, chúng tôi nhanh chóng nổ máy xe vượt qua ruộng màu và tiến hành xung phong đánh chiếm trận địa địch đúng giờ quy định ... và cuộc cuộc diễn tập cũng hoàn thành suôn sẻ.
          Sáng hôm sau tôi cùng với Đại đội trưởng mang tiền đến nhà bác nông dân để xin được đền bù thiệt hại. Bác mời 2 chúng tôi vào nhà, rót nước mời chúng tôi uống và nói:
          - Các chú tập xong rồi à ! đã rút về đơn vị chưa.
          - Rồi ạ ! Chúng tôi trả lời - Thưa bác hôm nay chúng cháu đến để mong bác thông cảm và bác xem thiệt hại hoa màu thế nào chúng cháu xin trả, có thể bằng tiền hoặc công bộ đội, nếu cần phải trồng lại chúng cháu sẽ mua giống trồng lại cho bác.
          - Thôi mà ! Hôm trước nói thế để các chú rút kinh nghiệm đã làm sai thì phải ăn nói tử tế với dân chứ, nếu được đồng ý thì mình mới làm cách gì đi nữa thì cũng phải vì dân chứ. Bác vừa nói vừa nhìn mặt tôi, nhưng mà thôi sáng nay bác gái và các em đã trồng lại hết rồi các chú không phải trả gì hết.
          Tôi ngượng ngùng hết nỗi. Mặt tôi đỏ bừng và chỉ biết mong bác thông cảm cho tôi. Chúng tôi hết sức cảm ơn bác, chuyện trò đã xong chúng tôi ra về. Chuyện ấy Đại đội trưởng cũng không nhắc lại nữa, anh chỉ nói lần sau nhớ phải cụ thể hơn, người chỉ huy phân đội phải sâu sát trong huấn luyện nhất là trinh sát cái gì cũng phải nhìn tận mắt sờ tận tay, không được chủ quan.
          Tôi chân thành nhận khuyết điểm với anh, bởi tôi không sâu sát khi đi trinh sát ở xa thấy quả đồi bằng phẳng chưa có hoa màu gì, ai ngờ dân đã trồng lạc, trồng ngô nhưng chưa mọc đấy lẽ tôi phải đến gần xem xét cụ thể nếu thấy khó khăn phải tìm biện pháp giải quyết hoặc đề xuất cấp trên mới phải. Bài học này thấm thía suốt đời lính của tôi mãi mãi. Về trường tôi sẽ chẳng dám nói với ai chuyện ấy, song tôi tự răn mình nếu trở thành người sỹ quan rồi thì đừng để trường hợp tương tự xảy ra. Bởi tôi đang học để trở thành người chỉ huy.

MỘT CHUYẾN ĐI XA

          Ngày ấy, trung đội tôi nhận nhiệm vụ đi làm kinh tế cho Nhà trường.
          Đ/c Đại đội trưởng gọi tôi lên giao nhiệm vụ:
          - Đại đội 3 chúng ta trong tháng này đi làm kinh tế theo kế hoạch của Nhà trường, thời gian là 30 ngày. Trung đội 7 đồng chí có nhiệm vụ đi làm than tại Quảng Ninh, còn trung đội 8, 9 đi đóng gạch ở Đồng Lác. Thời gian đi là sáng ngày kia. Đồng chí về làm công tác chuẩn bị và quán triệt cho đơn vị rõ nhiệm vụ. Sau khi nghe anh phổ biến những quy định trong lao động làm kinh tế, ý nghĩa, mục đích, yêu cầu của đợt lao động này. Lòng tôi phấn khởi lạ thường tuy nhiệm vụ nặng nề thật đấy nhưng chúng tôi sẽ được đi xa, sẽ được đến Quảng Ninh một vùng biển giàu có của Tổ quốc.
          Tối hôm ấy tôi tổ chức sinh hoạt trung đội, quán triệt mục đích yêu cầu, ý nghĩa và xây dựng quyết tâm trong trung đội. Ai nấy đều phấn khởi ra mặt, mọi học viên trong trung đội thảo luận sôi nổi.
          - Chuyến này thì chúng mình được thấy biển rồi nhé, tha hồ mà ngắm.
          - Đi Quảng Ninh sẽ được thăm mỏ than, sẽ biến bãi cháy, cửa ông mở rộng tầm nhìn đấy các bạn a.
          - Con gái thợ mở đẹp cực kỳ nhé, gần than nhưng mà da trắng phải biết. Mọi người bàn ra tán vào.
          - Ôi dào ! Đi làm kinh tế, đi lao động chứ có phải đi du lịch đâu mà mơ mộng thế. Tiếng 1 cậu học viên tranh luận.
          - Đi lao động nhưng được đi xa, được ra biển chứ không phải cứ loanh quanh ở Đồng Doi, Đồng Lác toàn núi đồi đến phát chán - 1 cậu khác trả lời cả trung đội ồn ào phấn chấn. Ai nấy tranh nhau nói và mỗi cậu đều nghĩ đến 1 vùng đất mới lạ mà họ chưa hề đặt chân tới. Sau những phút ồn ào tôi kết luận: Đi lao động làm kinh tế lần này nhiệm vụ trước hết là phải hoàn thành khối lượng, đạt và vượt năng suất. Bảo đảm an toàn tuyệt đối, chấp hành tốt công tác dân vận, quan hệ tốt với anh em công nhân, thực hiện “đi dân nhớ, ở dân thương” đảm bảo giữ nghiêm kỷ luật, phát huy truyền thống Nhà trường ...
          - Chúng ta có nhất trí chấp hành tốt các quy định như vậy không ! Tôi hỏi     - Nhất trí ! ... mọi người đồng thanh trả lời.
          Tôi cho anh em học viên nghỉ sinh hoạt trong lòng thấy yên tâm về chuyện đi sắp tới. Vì trung đội 7 chúng tôi có truyền thống kỷ luật nghiêm, học tập tốt và hiện nay đang dẫn đầu đại đội. Trước khi đi lao động xa lại có sự nhất trí cao như vậy tôi lại càng thấy vững tâm hơn.
          Chiếc xe gát không mui chở chúng tôi hành quân từ trưa xe chạy qua Hà Nội - Bắc Ninh và trên đường đến Quảng Ninh trên xe hơn 30 học viên và nào xoong, nồi gạo muối ... 1 xe chật ních, người nào cùng thấy tươi tỉnh và tán chuyện ra trò.
          - Cậu Thuận ở tiểu đội 1 nói: Đất nước mình đẹp quá càng đi xa càng thấy đẹp mà thích anh Đỗ Thanh nhỉ ?
          - Cậu Sáng đề nghị với tôi: Trung đội trưởng Đỗ Thanh ơi ! ra mỏ chủ nhật được nghỉ cho em đi tắm biển nhé.
          - Rồi Huân, Dũng, Toàn, Thảo cũng với xin theo: cho em đi với nhé. Mọi người ồn ào cả lên ai cũng xin tôi khi được nghỉ chủ nhật cho đi tắm biển, đi chơi thăm các thắng cảnh quanh vùng lao động.
          Tôi nhìn học viên của mình bằng ánh mắt cảm thông và nói: Miễn là các cậu hoàn thành nhiệm vụ năng suất cao, rồi mình sẽ nghiên cứu.
          Tối hôm đó xe đến mỏ đã muộn lắm rồi, trời rét lại có mưa phùn. Chúng tôi xuống xe khênh gạo và thực phẩm vào nhà bác công nhân nơi liên hệ đặt bếp ăn, sau đó trực tiếp tôi đi mượn nhà cho học viên tạm nghỉ qua đêm ngày mai sẽ tính sau:
          Khi xong các công việc và cắt người gác xe thì cũng đã 1 giờ sáng, nhưng anh em chúng tôi cũng đã được sự giúp đỡ đùm bọc của các gia đình công nhân của mỏ. Một ngày đêm vất vả qua đi.
          Trung đội tôi được sự hướng dẫn của đồng chí Đại úy trợ lý Ban kinh tế Nhà trường và kỹ thuật viên của mỏ. Năng suất ngày công lao động ngày càng cao, công việc của chúng tôi là chọn than kíp lê ra khỏi đống than nhiều loại. Lao động thật là vất vả nhưng ai nấy đều hăng say làm việc, khí thế sôi nổi thi đua trong cả trung đội thật là cao, ai cũng muốn vượt năng suất để đến cuối tuần được bình xét xuất sắc và được đi chơi ngày chủ nhật. Vì quân số đi chơi tôi quy định theo 1 tỷ lệ nhất định. Trung đội làm nhiệm vụ độc lập, do đó mọi vấn đề tôi tự quyết định tất cả “quyền của tôi” to lắm, do đó sau này tôi mới ân hận mãi vì cái “quyền” của mình.
          Sau mỗi buổi làm việc anh em chúng tôi trở về nhà trọ (ở trong các gia đình công nhân của mỏ). Sau khi tắm rửa các học viên tham gia vệ sinh nhà cửa và giúp đỡ các việc vặt trong gia đình nên các gia đình công nhân quý chúng tôi lắm. Họ giúp đỡ chúng tôi tất cả những cái gì có thể giúp được, nào là quang gánh, rổ rá, xoong nồi, bát đĩa, thậm chí cả xà phòng. Tình cảm đó bền vững cho đến hết đợt lao động của chúng tôi.
          Thế là 1 tháng lao động cũng đã hết. Học viên trong trung đội ai nấy đều mệt mỏi. Sự ước ao được đến vùng biển, được đi thăm danh lam thắng cảnh khu mỏ chưa mỹ mãn, chỉ có 1 số người lao động xuất sắc mà các tuần bình bầu ở các tiểu đội đạt được là được đi chơi nửa ngày trong các hôm chủ nhật mà thôi, còn lại đa số học viên kể cả tôi chưa được đi chơi ra biển. Vì vậy ai cũng muốn được đi chơi. Tôi quyết định còn 1 ngày cuối cùng cho đơn vị nghỉ ngơi chờ xe xuống đón về trường cho anh em đi chơi hết buổi sáng hôm đó.
          Tôi gọi các đ/c tiểu đội trưởng lên và nói hôm nay các đ/c về cho anh em đi chơi đến 12h 00 có mặt. 1h 00 ăn cơm xong sẵn sàng chờ xe đơn vị lên đón trở về trường, mấy tiểu đội trưởng phấn khởi nhanh chóng tản đi.
          Vì chúng tôi tổ chức chia tay bà con anh em công nhân từ tối hôm trước do đó tôi cũng quyết định sáng nay đi cửa ông chơi và thăm người bạn cùng học, ở trưởng về công tác ở đây.
          Sau khi gặp bạn xong tôi lững thững ra chợ Cửa Ông đi dạo và mua một vài thứ cần thiết.
          Tôi đang mua 1 bao thuốc lá thì thấy 1 chị công nhân nói với tôi:
          - Chú bộ đội ở đơn vị nào mà còn ở đây.
          - Tôi ở Trường sỹ quan đi lao động ở mỏ hôm nay là ngày nghỉ nên đi chợ. Tôi trả lời.
          - Chú về đi, ở mỏ có bộ đội xô sát với một số người làm hiệp đồng của mỏ đấy.
          - Thế à ! chị để tôi về xem thế nào. nói thế nhưng tôi nghĩ: thiếu gì bộ đội lao động ở mỏ chứ đâu phải mình đơn vị tôi và cứ thế cho đến 12h kém 15’ tôi mới quay về khu mỏ.
          Tôi kinh ngạc và lo lắng khi thấy mấy học viên hốt hoảng chạy đến tìm tôi.
          - Báo cáo trung đội trưởng, đồng chí Thuận vừa bị thanh niên gây thương tích nhẹ.
          Tôi lạnh cả người vội chạy về nhà bác Thoa mà đồng chí Thuận ở, mọi người còn đông đủ. Có cả đồng chí giám đốc mỏ, đ/c thư ký công đoàn mỏ và đông đảo bà con công nhân, ai cũng nhìn tôi vừa trách móc vừa thông cảm.
          - Sự việc là thế này- đồng chí giám đốc đưa ra tờ biên bản và kể lại cho tôi nghe.
          Học viên trong đơn vị của tôi xô sát với một số thanh niên làm hiệp đồng của mỏ ở chợ, sau đó đám thanh niên trên kéo đến bao vây nhà đồng chí Thuận ở, định xông vào đánh bộ đội.
          Gia đình các bác công nhân kiên quyết phản đối hành động đó nhưng nhóm người kia vẫn cứ đe dọa mấy đồng chí ở nhà bác Thoa. Vì không có chỉ huy ở nhà, do đó Thuận phải ra “đàm phán” với nhóm thanh niên trên. Nhưng khi biết Thuận là học viên thì 1 thanh niên bất ngờ xông vào đánh Thuận. Không muốn chuyện nhỏ xé ra to, Thuận cố né tránh đòn tấn công của thanh niên, nhưng vẫn bị một vết thương nhỏ vào 1 bên tai làm chảy máu. Tự vệ mỏ và bà con công nhân cũng vừa tới kịp để bắt số người kia và đưa Thuận đi băng bó.
          Tôi lặng người đi và ấp úng xin lỗi giám đốc, bà con công nhân mỏ vì sự thiếu sót của mình và sự vi phạm kỷ luật của đơn vị mình.
          Một tiếng sau xe của đơn vị xuống đón, có cả đồng chí Bình phó chính trị đại đội. Tôi vội báo cáo lại với anh và nhận khuyết điểm.
          Anh Bình nói với tôi: cậu đưa trung đội theo xe về còn mình cùng với 1 học viên nữa ở lại giải quyết vụ việc và chăm sóc Thuận.
          Lên xe mà tôi cứ áy náy mãi mặc dù các bác, các chị công nhân ra tiễn chúng tôi rất lưu luyến, có người còn khóc trong sự chia tay với chúng tôi.
          Đấy là một bài học thấm thía. Nếu tôi mà không chủ quan thì sự việc không xảy ra như vậy. Nếu như có mặt tôi hôm đó? Nếu như tôi không đi chơi ? Hoặc cho anh em đi chơi mà có tổ chức thì hậu quả tai hại kia có lẽ không xảy ra hoặc có xảy ra thì cũng có phương pháp giải quyết không để xảy ra nghiêm trọng như vậy !
          Sau đợt lao động ấy, tuy năng suất rất cao nhưng trung đội tôi không hoàn thành nhiệm vụ, những học viên tham gia vụ xô sát đó phải trả về địa phương (trừ đ/c Thuận). Riêng tôi kết quả bình xét Đảng viên cuối năm chỉ đạt đảng viên đủ tư cách ở mức 3 và tai hại hơn là đợt tăng quân hàm sỹ quan năm đó danh sách không có tên tôi.
          Điều tai hại lớn hơn nữa là Ban giám đốc mỏ quyết định đình chỉ hợp đồng lao động kinh tế làm than giữa trường và mỏ. Một đại đội khác trong Nhà trường xuống thay vị trí lao động của trung đội, tôi lại phải buồn bã lên xe quay về, chỉ vì những khuyết điểm của đơn vị tôi mà Nhà trường mất bao nhiêu công sức kể cả đồng chí Hiệu trưởng cũng phải đến mỏ để giải quyết hậu quả do chúng tôi gây ra.
          Thật là thấm thía, đó là bài học của công tác chỉ huy đơn vị của tôi mà tôi vẫn còn nhớ mãi.
                                                                                                            Nguyễn Văn Lai


















TÌNH YÊU SAU PHIÊN GÁC
                                                           Nguyễn Văn Lai

          Tôi vốn dút dát và cả nể, không hiểu dun dủi thế nào mà sau khi kết thúc khóa huấn luyện chiến sỹ mới tôi lại được điều về Đại đội Vệ binh của Nhà trường làm nhiệm vụ canh gác thật là vất vả và căng thẳng, nhiệm vụ chính của chúng tôi là bảo vệ an toàn tuyệt đối cho Nhà trường. Đặc biệt là khu vực cổng chính để duy trì nghiêm điều lệnh, điều lệ, chỉnh đốn tác phong, mang mạc của mọi quân nhân ra vào doanh trại. Những ngày đầu khó chịu làm sao, tôi chẳng thích thú chút nào, mặc dù đã được cấp trên quán triệt và động viên nhiều.
          Từ nhỏ cho đến khi học xong phổ thông trung học nào tôi đã phải thức khuya, dậy sớm gì, canh gác lại càng không. Bởi vậy, những giờ gác dù là ban ngày hay ban đêm tôi đều khó chịu cả. Nhưng là chiến sỹ tôi phải thực hành nhiệm vụ theo sự phân công của cấp trên một cách miễn cưỡng. Nhớ lại những ngày đầu khi mới về đại đội nghe tiểu đội trưởng gọi tên:
          - Phạm Khắc Canh đi gác ca đầu.
          Tôi giật thót người khi nghe tiếng gọi đến tên mình và tiếng cười ngặt nghẽo của một vài chiến sỹ cũ.
          - Canh lại gác rồi - Họ cười và trêu tôi như vậy. ấy thế mà đến bây giờ tôi lại thấy mến cái “binh chủng canh gác” này kia ché, cũng chẳng hiểu vì đâu?.
          Vào một buổi trưa khi tôi đang đứng gác và mải mê theo đuổi những ý nghĩ không đâu vào đâu. Vì giữa trưa người qua lại cổng gác rất ít, hầu như không có. Tôi ngắm đất, ngắm trời súng cầm tay tha thẩn đi quanh vọng gác. Bỗng trên con đường từ thôn Phúc phía trước mặt có những cô gái quang gánh trên vai đi về phía mục tiêu tôi canh gác. Đến gần hóa ra là 3 cô gái còn rất trẻ mà lại đẹp nữa.
          - Chào anh Canh. Chúng em biết anh rồi mà anh chắc là chưa biết chúng em đâu nhỉ ? Anh mới được điều về làm vệ binh à ?
          Tôi chưa biết trả lời ra sao thì 1 trong 3 cô nói tiếp.
          - Hôm nay lính mới gác có khác, oách thật ! Chúng em muôn đề nghị anh cho chúng em vào bên trong trường cắt cỏ nhé.
          - Không được. Tôi rất khoát trả lời - Đây là doanh trại bộ đội chứ có phải là đồng cỏ hoang đâu ?
          Tôi vừa nói vừa nhìn vào các cô gái và nhìn vào trong hàng rào, đúng là cỏ  ở đây tốt thật. Trong doanh trại bộ đội, nhân dân khó được vào cắt cỏ, trâu bò chẳng dám vượt qua nên cỏ tốt hơn hẳn bên ngoài. Bây giờ tôi mới để ý đến điều đó.
          Một cô gái áo hoa tiến lại gần vọng gác trên vai vẫn mang đôi quanh gánh tòng teng.
          - Buổi trưa các Thủ trưởng đi ngủ cả, không ai kiểm tra, anh cho chúng em vào cắt cỏ một lúc. Cỏ tốt cắt nhanh lắm anh ạ, xong chúng em ra ngay mà ?
          - Làm sao tôi có thể cho các cô vào doanh trại được chứ, Thủ trưởng tôi đã quán triệt rồi không cho bất cứ người lạ vào doanh trại.
          - Thanh niên gì mà khó tính thế ? Một cô gái nói - chúng em không thích những người khó tính đâu ?
          Tôi đỏ mặt thẹn thùng, lòng thấy nguôi nguôi nhưng miệng vẫn nói cứng.
          - Không được đâu, xin mời các cô cứ cắt cỏ ở đây nhưng ở ngoài hàng rào là được.
          - Ngoài hàng rào nói mà làm gì ? Về thôi Thủy ơi. Tiếng một cô gái gọi và cô áo hoa trả lời.
          - Ừ thì về lính mới mà khó thật !
          Tôi nhìn các cô gái quay đi mà lòng đầy bối rối, vội quay nhìn vào trong doanh trại. Buổi trưa im ắng lạ thường, không có một bóng người nào đi lại.
          Quay lại tôi vội gọi theo các cô gái:
          - Này có cắt thì nhanh lên vào đi, tôi chỉ giải quyết lần này thôi nhé. Có lẽ tính cả nể của tôi bùng phát hay là “bệnh sỹ” đây. Bởi vậy chỉ một loáng 3 cô gái đã đi qua cổng gác nơi tôi đang làm nhiệm vụ và tiếng cắt cỏ rào rào nghe vui tai đáo để.
          Tôi sách súng đi loanh quanh vọng gác và nơi 3 cô gái cắt cỏ, mắt luôn luôn quan sát xem có Thủ trưởng nào đi kiểm tra không.
          Thật là rủi thay khi các cô gái mới cắt được một nửa gánh cỏ thì đồng chí sỹ quan trực ban trưởng Nhà trường đi kiểm tra phát hiện thấy các cô gái đang cắt cỏ ở vọng gác nơi tôi gác. Đồng chí lệnh cho tôi phải đưa 3 cô gái ra khỏi hàng rào mà không cho cắt cỏ nữa và sau đó chắc là các đồng chí cũng biết là điều gì xảy ra với tôi. Có điều qua ánh mắt tôi biết các cô gái nghe chừng thông cảm với tôi lắm.
          Chiều hôm đó, tất nhiên là tôi phải viết bản kiểm điểm và chịu trách nhiệm trước việc mình làm.
          Thế rồi, nhân dịp kỷ niệm ngày truyền thống Nhà trường 15/4 Liên chi đoàn vệ binh chúng tôi kết nghĩa với chi đoàn địa phương tổ chức giao lưu văn nghệ và dạ hội. Buổi dạ hội được tổ chức tại sân kho của chi đoàn địa phương. Trong giao lưu văn nghệ và dạ hội tình cảm quân dân càng thêm đậm đà, nồng ấm, thắm tình cá nước. Dạ hội có nhảy các điệu vũ mà chúng tôi đã từng được tập chỉ khác là hôm nay có cả các bạn gái của thanh niên địa phương. Trong danh sách dạ hội từng đôi một, cứ một chiến sỹ nhảy với một cô thanh niên. Tôi thấy có tên tôi và một cô gái tên Thủy nào đó. Canh - Thủy.
          Lòng phấn khởi lạ thường suốt ngày hôm đó trong đại đội ai cũng náo nức chờ đến tôi. Tôi cố hình dung ra một cô Thủy vừa đẹp, vừa sinh lại vừa nhảy đẹp. Khi đi lại tôi vẫn thầm ôn những động tác nhảy mà các anh cán bộ đoàn trong đơn vị đã dạy cho tôi, chỉ sợ rằng khi nhảy thua các cô gái thì xấu hổ lắm.
          Thế rồi buổi tối cũng đã đến. Chúng tôi diện những bộ quần áo mới nhất, gọn gàng và chỉnh tề hành quân ra thôn Phúc. Trên sân kho giữa làng, ánh điện được kéo ra sáng chói. Tiếng nhạc được phát ra từ những chiếc loa thùng nghe nhộn nhàng, âm vang. Công tác tổ chức được chuẩn bị chu đáo bởi có sự hiệp đồng giữa 2 tổ chức đoàn kết nghĩa.
          Buổi dạ hội bắt đầu, tôi tìm đến cô Thủy thì bắt gặp một khuôn mặt thân quen và ánh mắt gần gũi. Thôi đúng rồi ! Thủy cô gái mặc áo hoa cắt cỏ hôm nào. Thế này thì khó sử thật. Bỏ cuộc ư ? Không được ! Tôi đành nắm tay Thủy cùng bước những bước nhảy dịu dàng của một điệu và quen thuộc. Ánh mắt em nhìn tôi tin tưởng và khóe miệng cứ cười cười như muốn trêu tôi. Tôi cố tình làm ngơ như chưa hề gặp Thủy. Chờ mãi không thấy tôi bắt chuyện trước, cô gái vội nhỏ nhẹ lên tiếng, giọng như hờn dỗi xa xăm.
          - Anh Canh có nhận ra em không ?
          - Có ... à không ! Hôm nay tôi mới gặp em.
          - Anh nói dối ! nhưng anh đừng giận chúng em nhé, em là một trong ba cô gái cắt cỏ hôm trước đã làm phiền anh đó thôi, anh có nhớ cô gái mặc áo hoa hôm đó không ? Chính là em đấy nhưng là lính mới ai lại nhớ chuyện buồn dai kia chứ phải không. Hôm nay, gặp anh em nhận ra liền và rất thích nhưng cứ để xem anh có nhận ra em không ?
          - Em đẹp lắm ! Bất giác tôi buột miệng nói câu ấy.
          à ... mà em hôm ấy có giận anh không ? Thôi thế là hòa Thủy nhé.
          - Không được hòa ! em bắt đền anh đấy. Sau dạ hội mời anh vào nhà em chơi.
          - Để xem đã, anh thử xin phép Thủ trưởng xem có được không. Tôi mạnh dạn trả lời và lúc này mới có dịp nhìn Thủy kỹ hơn. Đúng là em đẹp thật, đôi mắt bồ câu có duyên sao mà nó đen tròn ngơ ngác, cái mũi dọc dừa, cái miệng cười tươi như một đóa hoa, một khuôn mặt trái xoan trắng hồng mà đẹp một cách dịu dàng. Ai dám bảo nữ diễn viên điện ảnh đẹp hơn nào. Không ? tôi cho là không thể dưới con mắt của tôi lúc này Thủy cô gái của thôn Phúc đang nhảy với tôi có lẽ là đẹp nhất vậy. Cái tuổi 17 của em sao mà đẹp, ngây thơ, khỏe mạnh, tràn đầy sức sống, lòng tôi trũng xuống. Từ khi lớn lên đến khi vào bộ đội tôi đã được yêu ai đâu, cả đến cái nắm tay một cô bạn gái cũng chưa từng có.
          Hôm nay nắm tay Thủy tôi thấy như có một cái gì đó cứ lâng lâng. Hơi ấm ư ! cũng có thể và một cái gì đó nó còn hơn tất cả cứ như muốn kéo tôi vào sát hơn, sát hơn nữa với Thủy, còn Thủy cũng nhận thấy tâm trạng và tình cảm của tôi nên em không có phản ứng gì. Chỉ thấy trong ánh mắt em toát ra đầy vẻ tin tưởng. Cứ như vậy chúng tôi say mê trong điệu nhảy dặt dìu và chuyện trò với nhau trong tiếng nhạc xập xình cho đến khi tan hội lúc nào chẳng biết.
          Rồi tình yêu của chúng tôi từ đấy nhen lên. Tối thứ 7 nào mà không phải làm nhiệm vụ canh gác tôi cũng xin chỉ huy đơn vị được có mặt tại nhà em. Chúng tôi yêu nhau tình yêu trong trắng và đơn giản, nồng nàn như cuộc đời của chúng tôi vậy.
          Từ đó trở đi mỗi ca gác của tôi thường được chú trọng hơn. Trước khi đi làm nhiệm vụ tôi bao giờ cũng sửa sang lại quần áo gọn gàng sạch sẽ, đôi giày thường xuyên được giặt sạch sẽ ôm lấy đôi chân gọn gàng hơn. Cả đến cái mũ, đôi quân hàm tôi cũng gần như tân trang lại bởi nơi tôi làm nhiệm vụ cách đó không xa thôn Phúc ở đó có Thủy - người yêu của tôi.
          Phát hiện được điều này đồng đội trong Đại đội vệ binh lại đùa tôi.
          - Canh dạo này chính quy nhất đấy!
          Thủ trưởng đơn vị biểu dương tôi.
          Đồng chí canh gác đảm bảo giờ giấc tốt. Đặc biệt là tác phong chững chạc hẳn, lời ăn tiếng nói đều có văn hóa, các đồng chí khác cần phải học tập.
          Ở vọng gác tôi vẫn thường nhìn thấy Thủy đi làm qua đây, chúng tôi vẫn nhìn nhau bằng cái nhìn e thẹn và tin tưởng. Tôi thấy yêu phiên gác hơn lên, sẵn sàng gác thay cho những đồng chí ốm hoặc bận việc khác. Nói chung là tôi tiến bộ hơn nhiều so với ngày mới về đơn vị. Có lẽ là tình yêu đã lên tiếng rồi chăng.

         


















LÀNG VĂN HÓA QUÂN NHÂN ĐỒNG TÂM

          Con suối Nà Mường chảy từ dãy núi cao Viên Nam qua chân núi Vua Bà đến khu vực làng Đồng Tâm ( xã Thạch Hòa - huyện Thạch Thất - TP Hà Nội) lượn một vòng tạo thành một khu đất rộng, tương đối bằng phẳng, người dân địa phương thường gọi khu đất ấy với cái tên nôm na là khu Đồng Lác. Sau này một bộ phận khu gia đình quân nhân của Trường sỹ quan Lục quân chuyển đến cùng với một số ít hộ dân của thôn 9 và công nhân nông trường Quân đội 1A lập thành làng Đồng Tâm. Núi Vua Bà, có tài liệu cho rằng xưa kia chính là nơi Hai Bà Trưng đã dụ quân Tô Định từ khu vực Mê Linh bên kia sông Hồng vào bẫy tạo thành trận quyết chiến điểm để tiêu diệt giặc. Trận đánh diễn ra ác liệt và quân Nữ vương đã đánh bại kẻ thù, ở đây Hai Bà đã biết dựa vào địa hình hiểm yếu và thế núi của dãy Viên Nam để dàn quân bố trí đội hình, đưa giặc vào trận đồ bát quái không có đường ra và tiêu diệt chúng. Núi Vua Bà dường như là nơi hội tụ của những tinh tú và hồn thiêng sông núi đã được dòng Nà Mường đưa về khu Đồng Lác tạo nên một khu đất tốt, có thế tựa sơn, đạp thủy và ở đó làng quân nhân ở Trường sỹ quan Lục quân được thành lập.
          Thuở lập làng, ông Dương Văn Kiểm - một cán bộ của Nhà trường là người đầu tiên dựng ngôi nhà lá 2 gian của mình với một trại tăng gia, chăn nuôi của Nhà trường giao cho ông phụ trách. Ngày ấy dc còn nghèo, nhân dân còn đói, lẽ dĩ nhiên quân đội cũng còn nhiều khó khăn gian khổ, sản phẩm tăng gia, chăn nuôi đóng vai trò rất quan trọng trong việc cải thiện và nâng cao chất lượng bữa ăn của bộ đội. Đồng Lác đất tốt, môi trường trong lành rất thuận lợi cho ông Kiểm trồng lúa, trồng rau, nuôi lợn, nuôi dê, nuôi trâu bò và gia cầm, những sản phẩm đó được cung cấp cho từng bếp ăn của Nhà trường. Thời gian ấy, khu gia đình của Trường sỹ quan Lục quân 1 rất chật hẹp, các cặp vợ chồng cùng công tác ở Trường ngày càng đông, nhu cầu nhà ở rất cao, trong khi đó kinh phí xây dựng thiếu thốn, nhà cửa khu gia đình quân nhân ngày càng xuống cấp hư hỏng nhiều nhưng vẫn không đủ, nhiều cặp vợ chồng cưới nhau 2, 3 năm vẫn phải ở tạm nửa gian khu chiêu đãi sở. Trước thực trạng đó, Thường vụ Đảng ủy Nhà trường họp bàn, tìm cách tháo gỡ. Một quan điểm đưa ra phải phối hợp giữa Nhà trường và từng hộ quân nhân cùng thực hiện thì mới giải quyết được vấn đề nhà ở của gia đình quân nhân. Với sự quyết đoán, sáng tạo đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Ban giám hiệu đã chọn khu Đồng Lác cách trường gần 4km là nơi chuyển một bộ phận khu gia đình của Nhà trường ra đó lập nghiệp. Quyết định đưa ra gặp không ít khó khăn, vướng mắc, một số người không đồng tình, cho rằng Nhà trường đưa các gia đình sỹ quan ra một nơi hoang vắng, xa trường, không tạo điều kiện thuận lợi cho sỹ quan, công nhân viên công tác... Tuy nhiên với sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo, chỉ huy Nhà trường sự giúp đỡ tận tình của các cơ quan chức năng, một khu gia đình quân nhân mới được xây dựng - làng Đồng Lác được hình thành từ đó.
          “Đất lành chim đậu”, câu nói của người xưa quả là không sai chút nào. Đồng Lác cựa mình, những ngôi nhà ngói và vườn cây đua nhau mọc lên, các hộ gia đình quân nhân cần cù chịu khó, sau giờ làm việc trở về, họ tích cực tăng gia, chăn nuôi, sửa sang nhà cửa, củng cố vườn tược, cuộc sống cứ thế được nâng lên. Những năm sau đó, nhà tranh, nhà ngói được thay bằng nhà mái bằng, một tầng, rồi hai tầng, ba tầng, sỹ quan đi làm bằng xe đạp được thay thế bằng xe máy, quãng đường 4km giờ đây không còn xa nữa. Bộ mặt Đồng Lác đã thay da, đổi thịt, vốn chỉ là khu đất trống, trở thành khu gia đình sỹ quan rồi trở thành làng Đồng Lác trù phú, ở đó có cả một ban quản trị gồm những người đang công tác trong quân đội và đã nghỉ hưu được quần chúng bầu lên điều hành, quản lý. Bằng chính sức lực và mồ hôi của mình, khu gia đình sỹ quan Đồng Lác đã và đang phát triển mạnh mẽ, từ chỗ chỉ có khu gia đình sỹ quan của Nhà trường được gọi là cụm 8, sau đó đã mọc lên khu dân cư của bà con địa phương và công nhân nông trường quân đội 1A được gọi là cụm 7, hai cụm dân cư này hợp thành Đồng Lác. Ở trên một khu đất tốt, mặc dù tính chất công việc khác nhau, quê hương mỗi gia đình khác nhau nhưng Đồng Lác luôn đoàn kết chặt chẽ, sống có tình làng, nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau, khi có công việc xây dựng thôn làng thì đồng tâm hiệp lực để thực hiện, gặp những vấn đề vướng mắc thì đoàn kết, đồng tâm cùng nhau tháo gỡ, tìm ra những biện pháp vẹn toàn.
          “Gái có công, chồng không phụ”, tình đoàn kết quân dân gắn bó và tình làng nghĩa xóm bền chặt đã được lãnh đạo Trường sỹ quan Lục quân 1 và chính quyền địa phương quan tâm. Ngày 19 tháng 10 năm 2001 làng chính thức được thành lập và cũng chính thức được mang tên làng Đồng Tâm - cái tên mang đầy ý nghĩa của sự đoàn kết quân dân, đoàn kết xóm làng.
          Đồng Tâm - một tên làng, một địa danh thuộc xứ Đoài, một làng văn hóa quân nhân của Trường Lục quân 1, năm 2005 đã được ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây công nhận là làng văn hóa, đây có lẽ là một trong những số ít làng quân nhân được công nhận danh hiệu quý giá này. Đồng Tâm gồm 155 hộ với dân số 565 người chủ yếu là các gia đình sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng đang công tác tại Trường sỹ quan Lục quân 1 hoặc đã nghỉ hưu. Làng ở trên một diện tích đất 44,7 ha giữa làng có con đường tỉnh lộ chạy từ quốc lộ 21A đến đường cao tốc Làng - Hòa Lạc kéo dài, tạo cho làng có điều kiện phát triển kinh tế, giao thông thuận lợi và là nơi giao điểm đón nhận các sản phẩm nông nghiệp quý giá của các xã miền núi Lương Sơn, Hòa Bình mang xuống thị tứ Hòa Lạc bán mua. Làng Đồng Tâm đã hội tụ của tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, tính cộng đồng, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của các quê hương xứ sở để xây dựng làng văn hóa quân nhân ngày càng giàu đẹp. Đồng Tâm luôn giữ vững danh hiệu “làng văn hóa” với thường xuyên củng cố xây dựng các gia đình văn hóa gắn với xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư. Năm 2004 có 88% đến năm 2006 có 100% hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa, không có các tệ nạn xã hội cờ bạc, mại dâm, ma túy, văn hóa phẩm đồi trụy như những làng quê Việt Nam khác. Làng văn hóa quân nhân Đồng Tâm có chi bộ thôn, có chi hội cựu chiến binh, chi hội người cao tuổi, chi hội phụ nữ, ban công tác mặt trận, ban hòa giải, câu lạc bộ thể thao ... Thực hiện tốt nếp sống văn minh trong thực hiện việc cưới, việc tang, lễ hội, mừng thọ, đời sống kinh tế ổn định, an ninh chính trị được giữ vững, an toàn xã hội được bảo đảm. Các hộ gia đình trong làng ngoài giờ làm việc nhà nước còn tích cực tăng gia chăn nuôi, nhiều hộ có vườn cây ăn quả, có nuôi gia cầm, gia súc, mua sắm được các tiện nghi đắt tiền. Bằng sự đóng góp công sức và kinh phí, làng văn hóa quân nhân Đồng Tâm đã xây dựng nên khu vui chơi thể thao với các sân bóng đá, sân cầu lông, bóng bán, có hệ thống truyền thanh nội bộ. Ở đây hệ thống đường giao thông, đường làng, ngõ xóm thường xuyên được tu bổ, cải tạo hệ thống thoát nước, tổ chức làm vệ sinh, mắc điện chiếu sáng, tìm nguồn nước sạch cung cấp cho các hộ gia đình. Làng văn hóa quân nhân Đồng Tâm thực hiện tốt quy chế dân chủ, tích cực trong xây dựng chính quyền thôn xã vững mạnh, tỷ lệ cử tri tham gia bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp đảm bảo 100%, các thành viên trong làng tham gia xây dựng quy ước thôn bản, quy ước làng văn hóa có tính tích cực cao. Làng văn hóa quân nhân Đồng Tâm là nơi thường xuyên quan tâm, chăm sóc các cháu học sinh, con em cán bộ, công nhân viên Nhà trường, các hộ quân nhân trong làng mỗi tháng đóng góp vào quỹ khuyến học 1000đ để giúp các cháu học sinh nghèo và làm phần thưởng cho học sinh giỏi. Chính được sự quan tâm đó, nên số học sinh giỏi của làng văn hóa quân nhân Đồng Tâm ngày càng tăng, hàm năm có trên 10 cháu thi đỗ các trường đại học, cao đẳng, trên 50 cháu đạt học sinh giỏi từ cấp trường đến cấp tỉnh.
          Đồng Tâm - làng mới được hình thành trên 10 năm, chính thức có tên gọi Đồng Tâm trong hệ thống làng xã của huyện Thạch Thất, chưa đầy 5 năm mà đã trở thành làng văn hóa với một bộ mặt mới thật tươi trẻ. Ở đây chính là hậu phương vững chắc của những người lính Lục quân. Sau từng ngày, từng buổi huấn luyện vất vả trên thao trường trở về, sống giữa làng văn hóa quân nhân Lục quân, mỗi sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng của Nhà trường cảm thấy thư thái hơn, càng thêm yêu mến mái trường Sỹ quan Lục quân thân yêu và quê hương Hà Tây xứ Đoài mây trắng.
                                                                                                Nguyễn Văn Lai

















TIẾNG TRỐNG TRƯỜNG THÚC GIỤC
––––
                                                                                                Truyện ngắn
          Tên hắn là Lành, nhưng tính hắn thì ngược lại, cả phố Ái này ai cũng biết thế, bởi hắn thuộc dạng nghịch như quỷ sứ, hắn bày đủ trò cho lứa tuổi lau nhau như chơi đùa cả ngày, nào tập trận giả, vật nhau, múa kiếm gỗ xưng vêo cả đầu, rồi rủ nhau đá bóng, đánh cầu lông, bóng bàn…Một lần hắn bị công an gọi lên đồn, người ta nghi cho hắn ăn trộm khi hắn vừa tròn tuổi 15. Hôm đó, hắn đẩy xe hàng cho mẹ ra chợ bán, trời còn tối, lúc quay về thì đã mờ mờ sáng, hắn thấy một cái túi du lịch còn mới vứt ở bên đường nơi hắn đi qua. Tò mò, hắn nhặt lên, trong túi không có gì, chắc của ai đánh rơi-hắn nghĩ vậy và nhặt về định bụng giặt sạch dùng để đựng hàng cho mẹ đi chợ. Chính cái túi du lịch này đã gây rắc rối cho hắn. Đúng thế, mấy ngày sau, hắn bị công an gọi lên đồn vì chuyện chiếc túi du lịch đó.
          Một bọn trộm đột nhập vào nhà ông Hoà ở cuối phố lấy đi hầu hết số của cải có giá trị trong nhà của ông. Chẳng biết bọn nó chia chác thế nào mà vứt lại chiếc túi du lịch quái ác đó. Người ta phát hiện thấy mẹ con hắn dùng cái túi ấy, thế là hắn bị bắt tạm giam 3 ngày. Mẹ và em gái hắn lo buồn lắm, tuy rất bận công việc nhưng phải thay nhau mang cơm nuôi hắn. Rồi hắn được thả, do vô tội và còn ở tuổi vị thành niên. Từ hôm ấy, tính hắn khác hẳn, hắn trở nên lì lợm, nghịch ngợm, quậy phá hơn, thậm chí là hung dữ nữa. Bạn bè cùng lứa hắn chẳng sợ đứa nào, hắn bắt nạt cả những đứa con gái nếu thấy không vừa ý điều gì. Riêng có cái Vân Anh con Bác Thanh Toàn nhà bên là hắn phải nể và gần như là khuất phục hoàn toàn. Vì Vân Anh quan tâm đến hắn nhiều, Vân Anh là bạn của Lài em gái hắn. Có quà gì Vân Anh cũng để phần cho hắn nhưng mấy khi hắn nhận. Chỉ có dạo hắn bị công an bắt, ở trong nhà tạm giam thì hắn mới nhận quà của Vân Anh mang cho hắn mà thôi.
          Bây giờ, hắn 17 tuổi, Vân Anh 16 tuổi, hai đứa cùng học lớp 10A1 Trường phổ thông Trung học Tùng Trung. Hắn học giỏi nên được làm lớp trưởng, nhưng nghịch quá chỉ mấy tháng thì bị cách chức, còn Vân Anh làm bí thư chi đoàn lớp. Mặc dù hắn nghịch ngợm và quậy phá nhất lớp nhưng thường ngày vẫn ngấm ngầm giúp đỡ Vân Anh học tập và hoạt động công tác Đoàn. Giữa học kỳ hắn bị đuổi học vì mắc "3 tội tày đình".
          Tội thứ nhất, vào dịp giáp tết năm ngoái, mặc dù Nhà nước đã cấm đốt pháo, nhưng trong cặp của hắn vẫn có những quả pháo lẻ, hắn đốt pháo trộm và bị Nhà trường kỷ luật, tý nữa thì bị đuổi học. Buổi tối, khi đi gánh nước về cho em gái xay bột, hắn gặp Vân Anh. Gặp hắn Vân Anh nhấm nhẳng hỏi:
          - Sao bạn lại đốt pháo ở lớp để bị Nhà trường kỷ luật, ảnh hưởng cả đến Vân Anh và phong trào Đoàn của lớp.
          - Vì có "đằng ấy" đấy, mình đốt cho "đằng ấy" xem mà. Xin đừng giận mình nhé !
          Lần thứ hai, hắn đánh nhau với học sinh khối lớp 12. Khi ấy, tan học hắn đang lững thững sách cặp trở về thì nghe Vân Anh gọi giật lại "lại đây đã, bạn giúp mình với, nhanh lên". Chẳng hiểu có điều gì xảy ra nhưng khi Vân Anh nhờ giúp là hắn nhận lời ngay. Vân Anh và hắn quay lại lớp học thấy bọn con trai lớp 12 đang tự ý khênh chiếc bảng đen ra khỏi lớp hắn. Vân Anh cùng hắn giữ lại không cho bọn con trai lớp 12 khênh đi. Hắn chặn đường và kiên quyết không cho bọn chúng lấy chiếc bảng đen ấy, thấy thái độ kiên quyết của hai người, bọn chúng bỏ đi, Vân Anh khoá cửa lớp, cả hai mới yên trí ra về. Thế mà hôm sau bọn con trai lớp 12 ấy chặn xe, đẩy Vân Anh gã lăn ra vũng nước gần đó làm ướt, bẩn chiếc áo trắng học trò của nàng. Đúng lúc ấy, hắn đi tới thế là một trận ẩu chiến xảy ra, hắn nhảy vào đấm đá túi bụi, tuy một mình nhưng hắn xông xáo không chịu thua, bọn con trai lớp 12 bị một trận khá đau đớn, nhưng hắn cũng bị tơi tả, mặt mũi vêu, sước nhiều chỗ. Hắn nhanh chóng lên xe của Vân Anh và rút khỏi hiện trường.
          -Mình cám ơn bạn, nhưng đáng ra bạn không nên đánh nhau. Nhìn cậu đám đá mình thấy sợ quá, may mà không bị đau nhiều đấy- Vân Anh thốt lên.
          - Sao chúng nó giám làm "đằng ấy" ngã, Thấy Vân Anh ướt, bẩn quần áo mình không chịu nổi, nên phải cho chúng nó một trận, mình không sao cả.
          Chuyện vở lở, Ban Giám hiệu Nhà trường biết được và thế là hắn bị kỷ luật.
          Lần thứ ba, hành động của hắn vô tình nhưng rất nặng tội. Lúc ấy hắn vừa xoay người sút quả bóng thật căng thì cũng là lúc thầy giáo hiệu trưởng vừa đi tới, quả bóng bay thẳng đúng đầu thầy, cả người lẫn xe đổ kềnh. Hắn chạy đến đỡ thầy dạy và nhận lỗi ngay, hắn khai rõ họ tên, lớp học, không hề giấu diếm chút nào. Ngày hôm sau hắn có quyết định bị đuổi học do chính tay thầy hiệu trưởng ký. Hắn buồn ủ rũ, nhưng nhìn mặt hắn cứ tỉnh bơ, nhiều người thầm trách "trông mặt cứ nhơn nhơn, sao lại có học sinh vô kỷ luật thể không biết". Hắn buồn và ân hận thực sự, Vân Anh cũng buồn không kém nó. Từ nay hắn không được đi học nữa rồi. Thôi đành chịu vậy, thế thì ở nhà giúp mẹ. Hắn thương mẹ hắn lắm.
          Nhà hắn nghèo, bố hắn mất sớm lúc đó hắn mới 10 tuổi, 3 mẹ con hắn nuôi nhau qua bữa. Nhà nghèo, sự học của hắn bị gián đoạn, tuy hắn là anh nhưng học cùng em gái một lớp. hết bậc trung học cơ sở em gái hắn phải nghỉ học giúp mẹ làm bánh và chợ búa. Hắn là con trai, lại học giỏi nên được ưu tiên tiếp tục học lên trung học phổ thông. Tuy nghịch nhưng hắn thông minh và chăm chỉ nên kết quả học tập rất tốt. Hắn không muốn phụ lòng mẹ và em gái đã tạo điều kiện cho hắn được tiếp tục học. Bị đuổi học, biết được tin này chắc mẹ và em gái buồn lắm đây. Hắn chứng kiến cảnh mẹ hắn vất vả nhiều, không có đêm nào là mẹ hắn được ngủ trước 12 giờ và bao giờ cũng dậy trước 4 giờ sáng để làm bánh và đi chợ bán. Hắn biết bản thân mình đã lớn và khoẻ nhất nhà nhưng chưa làm được cái gì cho ra hồn để giúp mẹ, nhưng vẫn phải dùng tiền của mẹ để đóng học phí và mua sách vở. Nên hắn càng thương mẹ và em gái hơn gấp nhiều lần. Hắn ân hận quá, trong lòng như muốn khóc mà không khóc được, hắn muốn chạy về đứng trước mẹ để xin lỗi nhưng không thể làm nổi.
          Thôi cũng được. hắn nghĩ! ta sẽ ra chợ cùng với mẹ và em bán hàng, nếu có ai nhờ việc gì khuân vác hoặc bưng bê ta sẽ làm ngay, miễn là kiếm được chút tiền phụ giúp mẹ là được.
          Thế là, không được đi học, suốt ngày ở chợ, những lúc mệt nhọc ngồi nghỉ hắn lại nhớ lớp 10 A1 của hắn. Hắn nhớ, khi còn đi học cô giáo chủ nhiệm biết hoàn cảnh gia đình hắn khó khăn nên hắn có nghịch gợm một tý cô giáo cũng bỏ qua cho. Cô bảo Vân Anh gần nhà hắn thì cố gắng giúp hắn học hành với. Cô không nói nhưng Vân Anh cũng rất muốn giúp, nhưng hắn có bao giờ nhận sự giúp đỡ của Vân Anh đâu. Hắn tự ái vì gia đình Vân Anh kinh tế khá giả hơn nhiều. Lúc này hắn nhớ các bạn và nhớ Vân Anh nhất. Cứ mỗi lần ở ngoài chợ về, mở khoá cửa xong, bật điện sáng hắn lao vào bàn học của hắn lật từng quyển sách, quyển vở lên ngắm nghía. Nhiều lần hắn định gói ghém sách vở lại và cất đi cho gọn, không thèm nói đến chuyện học hành nữa.
          Một buổi trưa, hắn vừa về đến nhà, đã nghe có tiếng Vân Anh gọi thân quen.
          - Bạn có nhà đấy à?
          - "Đằng ấy" hôm nay tan học sớm quá nhỉ.
          - Sớm đâu mà sớm cũng, như mọi hôm thôi, bạn nghỉ học nên quên cả thời gian đấy mà.
          - Thôi đừng nói đến chuyện học hành nữa, mình sẽ kiếm được tiền để tự nuôi mình, "đằng ấy" đừng lo cho mình nhé.
          - Này chỗ ngồi của Lành trong lớp vẫn còn trống đấy, không có bạn tự nhiên mình thấy lớp vắng vắng thế nào ấy.
          - Có thật không ?
          Tự nhiên hắn thấy cảm động, mặt nóng ran, trước Vân Anh tay chân luống cuống cả lên, Vân Anh trong thấy đến là buồn cười.
          - Thôi chết,"đằng ấy" vào nhà mình chơi đã, từ nãy quên mất không mời Vân Anh vào nhà. Tự nhiên hắn chuyển đổi cách xưng hô từ "đằng ấy" trở thành Vân Anh.
          Thôi mình về đây, tối bạn đừng đi chơi nữa ở nhà, mình sẽ mang vở sang chép lại bài cho bạn học nhé, được không ?
          - Cám ơn "đằng ấy" để rồi xem.
          - Thôi đừng từ chối, mình về nhé!
          - Khoan đã, Vân Anh …mà thôi!
          Vân Anh vội ù té chạy, để lại phía hắn cái nguýt dài và tiếng chào tạp biệt "mình về đây".
**
          Hắn xuất hiện ở khu vực bãi tập quân sự của trường. Nhìn thấy hắn, các học sinh chỉ trỏ, các thầy, cô giáo nói nhỏ với nhau "coi chừng hắn phá đám, khéo hắn lấy mất súng thì nguy". Người ta thu gọn các dụng cụ, phương tiện, vũ khí trang bị gọn lại, vì sợ mất mát. Một tuần học quân sự của Trường Trung học phổ thông Tùng Trung náo nhiệt, học sinh tấp nập đông vui, nào súng, nào gậy, nào vòng ngụy trang, lựu đạn lỉnh kỉnh lắm thứ. Lúc Vân Anh đi học hắn bỏ buổi chợ theo ra bãi tập quân sự, từ xa ở góc sân trường hắn xem các bạn nữ và Vân Anh tập bắn, tập đi đều "một, hai". Trông bạn nào cũng cũng đẹp và lạ lẫm vì ai cũng mượn quân phục, đội mũ cối, chân đi dầy vải, tất xanh, nhìn rất khoẻ mạnh và đều tăm tắp. Bọn con trai nhiều đứa lại được đeo cả súng AK, CKC nữa trông mới hoành tráng, cứng cỏi làm sao. Nhìn đội hình các lớp tập đội ngũ đi đều thẳng tắp, tay đánh cao như con nhà võ, hắn thèm được đứng trong đội hình tập quân sự của lớp quá. Thể lực và tố chất của hắn rất mạnh mẽ nên tập quân sự rất phù hợp với tính cách của hắn, hắn thích lắm, nếu không bị đuổi học thì tuyệt biết bao nhiêu-hắn nghĩ thế và buồn bã nhìn theo các bạn. Đáng lẽ hắn phải được chỉ huy lớp 10 A1 của hắn tập quân sự đợt này mới phải chứ. Vì mọi người nói hắn có tướng chỉ huy lắm cơ mà. Tự nhiên hắn thấy cay cay sống mũi. Cái Hà, cái Hạnh, cái Vân Anh mỗi đứa cũng được giữ một khẩu súng CKC, một vòng nguỵ trang, khi tập tháo lắp cứ làm răm rắp, tiếng lách cách của vũ khí nghe đến vui tai, như kéo nó đến gần nơi tập luyện của Lớp 10 A1 hơn.
          Đã hơn một tháng bị đuổi học, hắn không được đến trường nữa. Mỗi lần có việc đi qua cổng trường, hắn tức tối lắm, chỉ mong có đứa con trai nào của lớp 12 đụng đến để mà được lao vào ẩu đã cho bõ tức. Tính hắn ngày càng hung hãn hơn, ở nhà hắn hiền từ, chịu khó thế mà đến chợ, hắn táo tợn như gã giang hồ, cũng quát nạt, cũng tranh cướp, giành giật từng công việc, từng đồng tiền, nhiều khi hắn gây sự vô cớ với khối người khách mua hàng. Thấy hắn ở chợ người ta nghi ngay hắn là một trong những đứa bụi đời lừa đảo ở tuổi vị thành niên. Thực tình, hắn nghỉ học thì mẹ hắn nhàn hơn, nhưng mẹ rất buồn định bụng sẽ đến trường xin cho hắn được tiếp tục đi học. Nhưng rồi công việc chợ búa cuốn hút, vì đồng tiền, bát gạo và cuộc sống gia đình nên mẹ hắn không đi được, lâu dần rồi quên luôn. Tuy có thời gian giúp mẹ nhưng kinh tế gia đình chả nâng lên được mấy, vì kiếm việc làm và kiếm tiền đâu phải chuyện dễ đối với nó. Mặc dù vất vả và bận rộn suốt ngày ngoài chợ, nhiều hôm tối đến hắn vẫn mượn vở của Vân Anh chép lại bài và nhờ Vân Anh dạy thêm cho. Thì ra hắn vẫn thèm học lắm chứ, có muốn bỏ học giữa chừng đâu. Hôm nay biết lớp tập quân sự, hắn bỏ buổi chợ ra xem các bạn tập, hắn muốn được đứng trong đội ngũ ấy lắm nhưng không thể. Vì đến gần người ta sẽ cảnh giác, tưởng hắn đến để chôm chỉa và phá đám, rồi sẽ nhìn hắn với con mắt khinh bỉ, thậm chí còn mời cả công an đến can thiệp nữa ấy chứ. Thôi dại gì, cứ đứng ở xa nhìn cũng được. Nhiều lúc hắn muốn xung phong đi nghĩa vụ quân sự nhập ngũ vào Quân đội nhưng chưa đủ tuổi. ở phường đội người ta không tuyển hắn vì nhà hắn neo người, lí lịch của hắn không trong sạch, con người hắn không tốt, nghịch ngợm như quỷ sứ, nên chẳng dại gì mà tuyển hắn cho thêm rắc rối.
          Hắn chạy, tự nhiên hắn bỏ chạy khỏi bãi tập quân sự của trường, hắn chạy như có ma đuổi một mạch về nhà, đóng cửa úp mặt xuống giường mà khóc. Những giọt nước mắt hiếm hoi của hắn ở lứa tuổi vị thành niên đầy gian truân cứ thế chảy tràn, hắn thương cho số kiếp con người, thương cho bản thân hắn gặp nhiều điều không may. Hình như hắn có chút ân hận, mà hắn có tội gì mà ân hận mới được chứ. Những trò chơi dẫn đến khuyết điểm là do vô tình và manh động của tuổi học trò mà thôi.
          Chiều hôm ấy, Vân Anh lại sang nhà hắn, gặp nhau Vân Anh hỏi.
          - Lành đã làm xong quả lựu đạn gỗ hôm trước Vân Anh nhờ chưa? ngày mai đến buổi tập ném lự đạn rồi dấy.
          - Bây giờ mình làm vẫn kịp mà-hắn cố gạt hết nỗi buồn và nhanh chóng cùng Vân Anh đi tìm dao và gỗ để đẽo lựu đạn.
          Trong khi đẽo lựu đạn, Vân Anh bắt gặp ánh mắt đầy nét buồn trên khuôn mặt có vẻ ương bướng của hắn. Tự nhiên Vân Anh thấy thương cho hắn quá. Nếu không được học tiếp, coi như là đời hắn mờ hẳn, suốt ngày chỉ là chợ búa với đồng tiền, bát gạo và hầm hè cải nhau mà thôi.
          Bất giác Vân Anh hỏi hắn:
          - Không được đi học nữa, Lành buồn lắm phải không?
          - Ừ, mình buồn lắm Vân Anh ạ, thấy các bạn tập quân sự mình thích quá. Nhưng đã bị đuổi học rồi mình không có cơ hội để được đi học như các bạn nữa. Ôi sao hồi ấy mình lại nghịch thế không biết, bây giờ ân hận thì đã muộn mất rồi. Mình…mình muốn được đi học lại. Mình nhớ Lớp 10A1 của chúng mình quá, nhớ tiếng trống trường, nó như thúc giục mình nhiều đến vậy. Nếu được bắt đầu lại, mình không nghịch ngợm nữa mà cố gắng học tập để theo kịp Vân Anh, "đằng ấy" đừng giận mình nhé-Hắn ấp úng với giọng buồn thổn thức.
          Vân Anh ngạc nhiên, cứ tưởng hắn chán học nên quậy phá, nghịch ngợm như thế, ai dè hắn vẫn thích học lắm. Nhìn hắn chằm chằm Vân Anh bảo:
          - Thế thì được rồi, mình sẽ báo cáo cô giáo chủ nhiệm và cả lớp biết rằng Lành vẫn thích được đi học, chứ không như mọi người nghĩ đâu. À này, bố tớ hỏi Lành đấy, bố bảo sao dạo này thằng Lành nghỉ học nhiều thế, hắn không chịu học hành gì cả, toàn chốn học ra chợ nhịch ngợm thế thì làm sao mà khá được.
          - Có thật không, hắn giật giọng hỏi ? Hay là "Đằng ấy" nhờ bố xin hộ cho mình được đi học với.
          - Được thôi, nhưng Lành phải đến trực tiếp gặp bố tớ mà xin, sau đó tớ sẽ nói giúp chắc là sẽ được.
          - Ừ nhé, ngay tối nay, mình sẽ bảo cả mẹ mình đến nhà Vân Anh để nhờ xem có được không. Xong lựu đạn rồi đây, Vân Anh cầm về mai đi tập nhé, nhất định tối nay mình và mẹ sẽ đến.
**
          Ông Thanh Toàn-bố Vân Anh là phó Chủ tich thị xã Tùng Trung phụ trách giáo dục, ông có mối quan hệ rộng rãi với các thầy, cô giáo của các trường phổ thông trên địa bàn thị xã. Ngoài mối quan hệ thân thiết, ông còn có tiếng nói rất trọng lượng và thế mạnh của vị lãnh đạo thị xã. Nếu được ông đứng ra giúp chắc là sẽ toại nguyện. Đối với ông xin cho một cậu học trò được đi học lại chỉ là một chuyện nhỏ trong tầm tay và vòng ảnh hưởng của mình, cái chính là ý chí và đạo đức của người học tồ ấy mà thôi. Việc tuy không khó, nhưng ông không dễ dàng giúp đỡ ngay mà phải để cho chính người học trò thấy được cái giá phải trả cho sự nghich ngợm, thiếu chín chắn của mình. Với ông "đánh kẻ chạy đi, chứ không ai đánh kẻ chạy lại" cương vị của ông là lãnh đạo, chỉ đạo thế nào để cho nền giáo dục của Thị xã ngày càng phát triển, giúp cho học sinh được đi học là đều tất yếu. Với hắn, vừa là hàng xóm, vừa là bạn thân của con gái mình xin cho hắn được đi học trở lại sau những vấp váp của tuổi học trò là trách nhiệm và tình thương của ông. Bởi ông vừa là người lãnh đạo, vừa là bậc cha chú, cần phải quan tâm nhiều đến hắn, có điều hắn hoặc phụ huynh của hắn phải có đơn xin đi học, chí ít cũng phải nói với ông một tiếng chứ, đó là lẽ thường tình.
          Nói thế nhưng mà hắn vừa dát, vừa sợ. Ở ngoài đời giữa chốn chợ búa ồn ào, ngập ngụa, hắn chẳng sợ điều gì cả, thế mà đến nhà Vân Anh hắn ngại thế. Hôm ấy, hăn chạy nhanh ra chợ bảo với mẹ những điều Vân Anh nói, những suy nghĩ và nguyện vọng của hắn. Mẹ hắn mừng lắm, nước mắt bà ứa ra, bà nhìn con mà cổ họng nghẹ ngào, tuy cuộc đời bà vất vả suốt ngày ngoài chợ chạy ăn từng bữa, chẳng biết miếng ngon là gì, nhưng bà không cần gì cả, chỉ muốn cho con được ăn học đến nơi đến chốn, và trở thành người là bà vui rồi. Khi thấy hắn bị đuổi học bà tuyệt vộng vô cùng, với thân phận goá bụa, bà không thể giúp gì cho hắn. Lúc này biết hắn quyết tâm đi học trở lại, bà vui lắm nên cố bán nhanh hết hàng để về xớm xin cho con đi học. Hắn cũng phấn khởi ra mặt, lầm lũi giúp mẹ dọn hàng về nghỉ xớm.
          Trời vừa xẩm tối, hắn đưa mẹ đến cổng nhà Vân Anh đứng ngoài chờ đợi để mẹ một mình vào. Nghe tiếng động, hai con chó to xồ ra, bà định lùi bước nhưng hắn xông lên đe nẹp lũ chó, Thấy có người gọi cổng, Vân Anh chạy ra đón mẹ con hắn, tuy thế hắn vần chưa dám vào, chỉ đến khi nghe tiếng bác Thanh Toàn gọi tên, hắn mới nem nép vào nhà.
          Sau khi mời ngồi, rót nước cho hai mẹ con hắn uống, bác Thanh Toàn mới ôn tồn hỏi :
          - Bác gái sang đây chắc là xin cho cháu Lành tiếp tục được đi học phải không ? Thôi được rồi tôi sẽ giúp, chắc chắn là sẽ được, thầy hiệu trưởng Trường Tùng Trung với tôi là chỗ bạn bè thân thiết ấy mà. Có điều cháu Lành phải chịu khó mà học chứ, bớt nghịch ngợm đi cháu nhé, cố gắng mà học, có kiến thức mới giúp được mẹ chứ cháu, chẳng nhẽ cứ để mẹ cháu vất vả và khổ mãi à, cố gắng lên nhé, bác tin vào cháu đấy.
          Mới nghe hỏi thế mà mẹ hắn đã vội nất lên, nước mắt lưng tròng, không thể nói lên lời.
          Nghe thế hắn bạo dạn và mạnh mẽ hẳn lên, thay mẹ trình bày nguyện vọng của mình với bác.
          - Dạ thưa Bác, cháu biết lỗi rồi, Bác xin cho cháu được đi học với. Cháu hứa là sẽ học tốt và chấp hành đúng nội quy của Nhà trường, không bao giờ nghịch ngợm nữa ạ.
          Thế nhé! có lẽ tuần sau là cháu có thể đến trường được rồi, hai mẹ con uống nước rồi về để còn chuẩn bị hàng mai đi chợ nữa chứ. À đây, tôi có tý quà nhỏ chị cầm về cho cháu nhé. Vừa nói, ông vừa đưa cho mẹ hắn một chiếc cặp da đen bóng. Tự nhiên , hắn bật khóc, nước mắt ở đâu mà lắm thế, cứ chảy tràn trên gò má hắn, hắn cùng mẹ nghẹ ngào chào Bác Thanh rồi ra về.
          Ra khỏi cổng, mừng vui đến tột độ, hắn bỏ mẹ hắn đi sau, nhảy chân thấp, chân cao, mồm huýt sáo vang chạy về nhà quên cả chào Vân Anh. Trời tối, những ánh điện trong nhà hắt ra không đủ nhìn đường, nhưng với hắn thấy như hàng ngàn, hàng vạn ngôi sao lấp lánh đang chiếu dọi xuống soi cho hắn đi. Bên tai hắn ù ù tiêng gió, nghe vang vọng như tiếng trống trường đang thúc giục.

                                                                   Nguyễn Văn Lai
HT 2CA-13 Sơn Lộc, Hà Tây
                                                          (Trường Sỹ quan Lục quân 1)











VANG VỌNG ĐỒNG DOI
–––––––
                                                                   Ký của Nguyễn văn Lai
          Nghe tên Đồng Doi người ta tưởng rằng đó là một miền đồng bằng với những ruộng lúa thẳng cánh cò bay. Nhưng không phải thế, đây là một vùng đồi núi nhấp nhô, một mầu xanh mát mắt của những đồi cây, một địa danh tiếp giáp giữ 2 tỉnh Hà Tây và Hòa Bình, nơi có con suối Cò uốn lượn vòng quanh và con đường cao tốc Láng Hòa Lạc kéo dài chạy qua. Là xứ sở của núi, không gian Đồng Doi thông thoáng dễ quan sát, dễ bố trí đội hình luyện tập, có thể tấn công trên mọi địa hình và phòng ngự đón đánh địch trên các hướng, các mũi. Từ Đồng Doi trải dài là sân bay Hòa Lạc và hồ Đồng Mô Ngải Sơn, một "Làng văn hóa các dân tộc Việt Nan" đã khởi công và xắp hoàn thành, tiềm năng du lịch đã thành sự thật. Dãy Đồng Doi là những bình độ kéo dài của núi Ba Vì, với những điểm cao đã đi vào tiềm thức của những người đã từng được đào tạo qua nhà trường quân sự lớn vào bậc nhất đất nước và Đông Dương này- Trường Sỹ quan Lục quân 1. Dưới góc độ quan sát và con mắt của các nhà quân sự, nơi đây, địa hình, địa lợi rất phù hợp cho bày trận đánh giặc. Ở Đồng Doi, những quả đồi như bát úp được bộ đội Lục quân xây dựng thành những trận địa phòng ngự, tiến công, phục kích, tập kích, đổ bộ đường không liên hoàn và một trường bắn có quy mô tương đối lớn và hiện đại, là thao trường luyện tập của Trường Sỹ quan Lục quân 1. Những vạt đồi xanh của Đồng Doi với những công sự đất đỏ nhìn như một trận đồ bát quái dùng để dạy học viên cách đánh giặc. Địa hình này rất phù hợp cho bày binh, bố trận, tiến cũng dễ mà lui cũng tiện. Phòng ngự có thể dựa vào lưng của Điểm cao 355 cố thủ, tiến công có thể đánh thẳng xuống sân bay Hòa Lạc theo đường 84, xuôi Quốc lộ 21 về Sơn Tây-Xuân Mai…

          Một khoảng không gian rộng lớn Đồng Doi, bầu trời trong xanh trong nắng và gió. Xa xa là Tản Viên mây trắng với 3 ngọn núi nhấp nhô có độ cao trên 1000m ở đó có truyền thuyết về một cuộc chiến trời long đất lở của "Sơn Tinh, Thủy Tinh" thủa hồng hoang. Thật đúng là đất thiêng của quê hương giầu truyền thống anh hùng và cách mạng, là mảnh đất "địa linh nhân kiệt" của xứ Đoài. Đồng Doi là nơi đào luyện, nơi xuất phát những tiềm ẩn tài năng nghệ thuật quân sự Việt Nam. Từ đây biết bao thế hệ sỹ quan Lục quân đã nối tiếp nhau trưởng thành, họ đi đến các chiến trường trong cả nước và quốc tế vận dụng bài học chiến thuật, bắn súng vào từng trận đánh tiêu diệt quân thù, làm nên những trận chiến thắng vẻ vang, góp phần vào sự nghiệp giải phong dân tộc thống nhất Tổ quốc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Cũng từ thao trường này, đã có nhiều sỹ quan trở thành những tướng lĩnh tài ba, những văn nghệ sỹ có tên tuổi, những kiện tướng thể thao quốc gia và quốc tế. Họ là những tấm gương sáng về đạo đức cách mạng và ý chí vuơn lên cho các thế hệ kế tiếp học tập và noi theo.
          Đồng Doi nghe mêng mang như một bài hát, vang vọng mãi bên những bản người Mường Yên Bài, xóm Quýt, xóm Chóng, xóm Muỗi, xóm Mái thân thương, ở đó có tiếng mõ trâu lóc cóc, tiếng ý ới gọi nhau mỗi buổi chiều về, từng đôi trai gái hò hẹn nhau trên những triền đồi khi đêm về dưới ánh trăng thanh. Từng đàn em bé áo trắng, khăn quàng đỏ trên vai tung tăng cắp sách tới trường. Những cô giáo là vợ bộ đội Lục quân say sưa dạy học trò trên những bục giảng của mái trường ngói đỏ biểu hiện của sự no ấm, thanh bình.
*
          Tiểu đoàn 10  là đơn vị phục vụ huấn luyện của Trường sỹ quan Lục quân 1 đứng chân trên địa bàn Đồng Doi do Thượng tá Trịnh Bá Hoa là Tiểu đoàn trưởng và Thượng tá Lê Khắc Việt là Chính trị viên. Biên chế của Tiểu đoàn gồm Đại đội bộ binh 34, Đại đội Cơ giới 35, Trung đội Bảo vệ thao trường và trung tâm Trường bắn Đồng Doi. Gần 20 năm về trước Tiểu đoàn 10 được thành lập trên cơ sở khu trường bắn do Liên Xô cũ giúp Nhà trường xây dựng với những tấm bia, máy báo bia cũ kỹ, lạc hậu của thời bao cấp. Cả một dãy Đồng Doi rộng lớn Trường bắn lạc vào giữ ngút ngàn của lau sạy, dương xỉ. Hàng vạn công bộ đội cùng những cỗ máy ủi san lấp, xẻ núi, lát đường, đắp bệ bắn, ụ cắm bia và những chiến hào giao thông hào xây dựng nên một trường bắn vào loại khá hiện đại lúc bấy giờ. Sau này, ở Đồng Doi ngoài khu trường bắn còn hình thành nên các thao trường luyện tập chiến thuật với các trận địa tiến công, phòng ngự, tập kích, phục kích, đỏ bộ đường không. Nhiệm vụ của Tiểu đoàn 10 là đảm bảo phục vụ các buổi bắn đạn thật các loại súng bộ binh và hỏa lực của Nhà trường và một số đơn vị bạn. Phục vụ các đợt diễn tập tổng hợp có bắn chiến đấu  tiến công và phòng ngự. Phục vụ các lần thi tốt nghiệp và tốt nghiệp quốc gia các khóa cho nhiều đối tượng học viên. Phục vụ các đợt tập huấn của Nhà trường và tập huấn của Bộ Quốc phòng và một số cơ quan cấp trên. Tuần tra bảo vệ đất quốc phòng giữ vững an ninh trật tự khu vực thao trường chiến thuật và trường bắn. Xây dựng mối đoàn kết gắn bó với nhân dân địa phương nơi đoáng quân…
          Tiểu đoàn thường xuyên có quân số cán bộ, nhân viên, Hạ sỹ quan-chiến sỹ phục vụ đông, tính chất nhiệm vụ đa dạng, phức tạp, nặng nề, cường độ phục vụ huấn luyện và trực tiếp huấn luyện cao, địa bàn đóng quân phân tán, doanh trại, nơi ăn, chốn ở của bộ đội có nơi đã xuống cấp. Đội ngũ cán bộ trường xuyên thay đổi, luân chuyển. Một điều khá đặc biệt là doanh trại của các phân đội thuộc Tiểu đoàn nằm xen kẻ với bà con nhân dân và một số gia đình công nhân thuộc Nông trường Việt-Mông, gần dự án làng Văn hoá các dân tộc Việt Nam. Vấn đề khó khăn nổi cộm là xuát hiện các hành vi lấn chiếm đất quốc phòng của một số người thiếu hiểu biết pháp luật hoặc "nhảy dù" từ nơi khác đến xâm canh, xâm cư. Đây là một vấn đề hết sức nhức nhối, nhưng cũng rất tế nhị và nhạy cảm. Quản lý và bảo vệ đất Quốc phòng tốt nhưng không để ảnh hưởng đến mối quan hệ đoàn kết quân dân, nhất là mối quan hệ giữa đơn vị với chính quyền và đoàn thể nhân dân địa phương là một vấn đề cần làm và phải làm.
*
          Ngày ấy tiếp quản Tiểu đoàn 10, Thượng tá Nguyễn Hưng Tân (nay là Đại tá Hệ trưởng Hệ 4- Trường sỹ quan Lục quân 1) được điều về nhận chức Tiểu đoàn trưởng khi Tiểu đoàn 10 còn đầy dẫy những khó khăn. Thượng tá Nguyễn Hưng Tân có những trăn trở, suy nghĩ, phải làm sao để xây dựng Tiểu đoàn 10 vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, xứng đáng với lòng tin của tổ chức. Tuy nhiên, trong đầy rẫy khó khăn đó, nếu không có lòng nhiệt tình và ý thức trách nhiệm cao thì khó trách khỏi những sai sót và sẽ dẫn đến khuyết điểm, trong đó khuyết điểm lớn nhất là chỉ huy đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ hoặc hoàn thành nhiệm vụ thấp. Nhưng điều đó đã không xảy ra đối với Nguyễn Hưng Tân và tập thể Tiểu đoàn 10. Đến nay, Tiểu đoàn 10 đã có bước phát triển ổn định vững chắc, đơn vị cơ bản hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, huấn luyện và phục vụ huấn luyện đạt được mục đích, yêu cầu đề ra. Trong đó giữ vững được đất quốc phòng không bị lấn chiếm hoặc bị xâm canh, xâm cư. Vấn đề quan trọng là tiểu đoàn đã xây dựng tốt địa bàn đóng quân an toàn, an ninh chính trị, trật tự xã hội, quan hệ đoàn kết gắn bó với Đảng và Chính quyền địa phương mà trực tiếp là 2 xã Yên Bài, Vân Hoà (huyện Ba Vì), phối hợp với địa phương ngăn chặn kịp thời các hành vi lấn chiếm đất quốc phòng, các hiện tượng gây mất trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ của một số đối tượng "nổi cộm" trên khu vực đóng quân của tiểu đoàn. Tiếp xúc với Thượng tá Nguyễn Hưng Tân, thấy rõ ở anh tính cương nghị và tố chất của người sỹ quan chỉ huy. Anh bồi hồi kể lại chuyện của những ngày mới về nhận nhiệm vụ chỉ huy tiểu đoàn. Lần đó, anh đi kiểm tra đơn vị cơ sở và thâm nhập địa bàn đóng quân của đơn vị nhằm tìm hiểu để có biện pháp quản lý chỉ huy. Đi qua một quán nước bên đường, trong đó có một số thanh niên lười lao động, thường xuyên tụ tập ở các quán uống rượu, sẵn sàng gây rối hoặc sấn sổ vào những nơi xảy ra các vụ việc tranh chấp, làm mất trật tự, mất ổn định, gây khó khăn cho chính quyền địa phương và đơn vị giải quyết, ổn định tình hình. Sau đó chúng nhận được một số tiền bồi dưỡng của một số kẻ chủ mưu, rồi chia nhau uống rượu, đánh chén. Gặp Nguyễn Hưng Tân đi kiểm tra, chúng đon đả mời anh vào quán. Lưỡng lự một chút, sau vài giây suy nghĩ (đây cũng là một dịp để tìm hiểu thêm tình hình địa bàn đóng quân) anh bước vào và hỏi:
          - Các anh gọi tôi vào đây có việc gì?
          - Ôi xếp, mời xếp vào uống rượu với chúng em, xếp mới về đây xếp chưa biết chúng em nhưng chúng em đã biết xếp rồi. Một thanh niên mắt xếch vừa nói vừa kéo ghế mời anh ngồi.
          - Xin mời các anh cứ uống rượu, tôi phải đi kiểm tra đơn vị, không có việc gì thì chào các anh tôi đi.
          - Ấy cứ bình đã xếp! việc đâu đã có đó. Xếp ngồi với chúng em cũng là đi làm việc đấy chứ. Chúng em có việc muốn trao đổi với xếp đây. Tên thanh niên mắt xếch nói tiếp.
          - Có việc gì các anh cứ nói! Anh bình tĩnh trả lời và ngồi xuống ghế.
          - Em nói thật với xếp nhé! Biết xếp là người "rất rắn" nên được Trường Sỹ quan Lục quân 1 cử vào đây chỉ huy Tiểu đoàn 10. Tuy vậy, nhân đây chúng tôi xin báo và khuyên xếp một điều: Làm "rắn" ở đâu không biết, chứ vào đây không nên làm "rắn" quá  mà khổ đấy xếp ạ, kẻo "không có đường về quê mẹ" và cũng để cửa cho chúng tôi làm ăn với chứ.
          - Các anh đừng có doạ tôi! Cũng nhân đây tôi nói rõ với các anh một điều. Tôi quê mãi tận Thái Bình, vợ, con tôi sống và công tác cũng tại quê. Tôi cùng đơn vị bảo vệ đất quốc phòng ở đây là bảo vệ đất cho Quân đội, cho Nhà nước chứ không phải là cho gia đình tôi. Tôi chỉ sợ làm gì sai trái với lương tâm, đạo đức mà thôi. Chỉ có ai làm những điều bất nhân, bất nghĩa và sai trái thì phải gánh chịu hậu quả, chứ tôi làm việc vì dân, vì Đảng, tôi chẳng sợ gì. Nhân đây tôi cũng khuyên các anh đừng nên làm điều gì trái với đạo lý, trái pháp luật mà dính vào con đường tù tội, rồi vợ con, gia đình các anh phải khổ lây đấy. Mong các anh suy nghĩ cho kỹ, đừng vì đồng tiền mà mất hết nhân tính, mà có những hành động mù quáng.
          Cả quán nước im lặng, số người trên không ai nói thêm được điều gì nữa, người thanh niên mắt xếch lặng lẽ đứng dậy rót nước mời anh. Anh uống cạn chén nước và chào mọi người đi làm nhiệm vụ theo kết hoạch.
          Người lính thời bình là thế đấy! đâu có phải đã hết gian khổ, hy sinh. Nền kinh tế thị trường đang tác động sâu sắc đến tâm tư, tình cảm của người lính, đâu đó người ta đua chen nhau làm giầu, còn người lính thì thế nào? Cuộc sống hiện tại không đơn giản chút nào, không chỉ là những miếng cơm, manh áo, tivi, xe máy mà là rất nhiều thứ nữa. Tỷ dụ như có bao nhiêu mét vuông đất mặt đường khu đô thi quy hoạch, hiện tại có mấy ngôi nhà, vợ con đã vào hết biên chế nhà nước chưa.v.v... Kể ra suy bì, so sánh thì không bao giờ công bằng được, nhưng trăn trở của người lính lớn nhất đó là việc làm của những đứa con mình dứt ruột sinh ra. Bởi cả cuộc đời bộ đội người lính không có hoặc có rất ít thời gian lo cho gia đình ,lo dạy dỗ con cái. Chỉ một mình nười mẹ thì chưa đủ dạy con nên người, nói chi đến việc làm cho con nữa. Nguyễn Hưng Tân cũng như bao người lính khác, hoàn cảnh gia đình cũng gặp nhiều khó khăn, nhưng anh luôn đặt việc hoàn thành nhiệm vụ lên trên những thứ khác. Cấp trên giao cho anh chỉ huy một Tiểu đoàn huấn luyện sỹ quan, phục vụ huấn luyện và giữ đất quốc phòng. Anh phải tìm mọi cách để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, điều đó quả là không đơn giản. Bởi khu đô thị ngày càng mở rộng, đơn vị anh nằm cạnh dự án Làng Văn hoá các dân tộc Việt Nam, có con đường Cao tốc chạy qua, đi đôi với nó là sự xâm lấn đất quốc phòng và như vậy thao trường, bãi tập, doanh trại của đơn vị sẽ bị thu hẹp. Còn đâu khu vực để bộ đội diễn tập chiến thuật, tập đánh thuốc nổ, bắn đạn thật, tập trinh sát luồn sâu, tập đánh quân đổ bộ đường không của hàng vạn lượt người tham gia.v.v... Quả thật Nguyễn Hưng Tân không ngại khó khăn, gian khổ, anh chỉ sợ không hoàn thành nhiệm vụ hoặc để cấp trên hiểu sai về mình. Gần 30 năm là người lính anh phải xa nhà liên tục, hết chiến trường miền Nam, lại ra mặt trận phía Bắc. Khi về làm cán bộ của Nhà trường, cuộc đời và gia đình anh có ba sự kiện lớn, do bận công tác anh điều vắng mặt. Lần thứ nhất khi đứa con trai đầu lòng của anh mất khi cháu vừa tròn một tuổi, anh biết tin về đến nhà thì cháu cũng đã đi xa, cha con không gặp mặt nhau được nữa. Lần thứ hai ông cụ thân sinh ra anh từ trần, anh về cũng không kịp, trước khi ra đi ông cụ cứ mong hoài người con trai trở về để cụ gặp mặt lần cuối nhưng không được. Lần thứ ba bà nội anh mất, vì bà anh chỉ sinh được bố anh là con trai duy nhất, anh là cháu đích tôn, trước khi nhắm mắt, cụ cũng chỉ muốn được gặp mặt người cháu yêu thương một lần cuối, 7 ngày sau anh về đến nhà thì chỉ còn gặp bà trong ảnh. May thay anh có người vợ hiền, tảo tần, chăm chỉ, một cô giáo trường làng duyên dáng, đẹp người, đẹp nết, ở nhà thay anh đảm đương vai trò của người con dâu hiếu thảo, nên các cụ ra đi cũng thanh thản phần nào.
          Con người ai cũng có tình cảm gia đình, quê hương. Nguyễn Hưng Tân không loại trừ điều đó, nhưng đã là người lính, người sỹ quan chỉ huy, anh đã vượt qua những khó khăn trở ngại, gác lại tình cảm riêng tư để cùng với tập thể lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hoàn thành nhiệm vụ. Trong nhiều năm qua, anh đã cùng với Đảng uỷ tiểu đoàn lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Tổ chức huấn luyện thành công 2 khoá 17, khoá 18 đào tạo sỹ quan Dự bị và khoá 1 bồi dưỡng kiến thức quân sự; huấn luyện có chất lượng 400 chiến sỹ mới năm 2001 và năm 2002; phục vụ tốt các nhiệm vụ của Nhà trường, nhất là phục vụ hoàn thành xuất sắc các đợt diễn tập tổng hợp khoá 64, khoá 65 đào tạo sỹ quan chuyên nghành và diễn tập năm thứ 3 khoá 66, đào tạo Hoàn thiện sỹ quan phân đội khóa7. Thông qua các nhiệm vụ này, các đơn vị thuộc quyền tiểu đoàn 10 đều được Nhà trường khen thưởng. Điều quan trọng là tiểu đoàn đã xử lý phù hợp, đúng pháp luật các vụ vi phạm đất quốc phòng, giữ nguyên hiện trạng địa bàn đóng quân, không để bị lấn chiếm hoặc xâm canh, xâm cư, bảo đảm giữ gìn thao trường cho bộ đội luyện tập. Đến nay, doanh trai đóng quân của tiểu đoàn đã khang trang, đẹp đẽ, có môi trường văn hoá lành mạnh... Điều đó mới thấy hết được sự cố gắng của cán bộ, học viên, chiến sỹ Tiểu đoàn 10, trong đó vai trò quyết định là tập thể Đảng uỷ, chỉ huy tiểu đoàn.
*
          Đại đội bộ binh cơ giới 35 do Thiếu tá Nguyễn Mạnh Hà đại đội trưởng  và Đại úy Đặng Đình Hưng chính trị viên chỉ huy, đóng quân trên 1 quả đồi thấp ở Đồng Doi, với 3 dãy nhà mái tôn gọn gàng, xinh xắn. Đại đội quản lý và sử dụng mấy chục đầu xe tăng, xe bọc thép chiến đấu phục vụ nhiệm vụ huấn luyện của Nhà trường, sẵn sàng chiến đấu, làm nhiệm vụ A2 và làm trợ giáo phục vụ các bài tập lái, các đợt huấn luyện chuyên ngành xe chiến đấu. Những chiếc xe tăng T54, xe bọc thép BMP-1. PTR-60BP và xe Trinh sát ĐM-2 mặc dù đã qua nhiều năm sử dụng nhưng vẫn sạch đẹp đỗ thành hàng ngay ngắn trong 2 dãy nhà xe. Các chiến sỹ lái xe, pháo thủ đang cần mẫn lai chùi, bão dưỡng từng chi tiết cả bên ngoài và bên trong của những chiếc xe yêu quý của họ. Qua những năm tháng lái xe hoàn thành tốt nhiệm vụ, họ được Nhà trường chuyển thành quân nhân chuyên nghiệp để phục vụ lâu dài trong binh chủng cơ giới này. Đại đội 35 là đơn vị luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, 5 năm liền được Nhà trường tặng danh hiệu "Đơn vị quyết thắng", nhiều cán bộ chiến sỹ được khen thưởng hàng năm. Thượng úy Ngô Minh Hưng-Đại đội phó Đại đội 35 là người gắn bó với đơn vị nhiều năm nay, anh quê ở Thụy Hương, Chương Mỹ, Hà Tây được đào tạo qua Trường Sỹ quan Tăng-Thiết giáp về Đại đội nhận nhiệm vụ. Với lòng yêu nghề anh đã có nhiều đóng góp xây dựng Đại đội vững mạnh toàn diện, anh còn là cây sáng kiến, trong đó có sáng kiến hệ thống phanh phụ dùng cho tập lái, huấn luyện trên xe PTR-60BP được ứng dụng rất hiệu quả trong vận hành xe phục vụ huấn luyện được Nhà trường và Bộ Quôc phòng tặng bằng khen và đang nghiên cứu 2 đề tài phục vụ trên xe bọc thép chiến đấu. Năm 2006, Ngô Minh Hưng được công nhận là "Chiến sỹ thi đua". Chiến sỹ lái xe tăng, thượng úy chuyên nghiệp Nguyễn Đình Trai đã có hơn 10 năm gắn bó với thao trường Đồng Doi, trong phục vụ học viên tập lái xe bọc thép chiến đấu, trong diễn tập bộ binh cơ giới, trong bắn đạt thật súng pháo trên xe, anh đều có mặt phục vụ tận tình chu đáo. Nhận thức của Nguyễn Đình Trai là muốn hoàn thành nhiệm vụ phục vụ huấn luyện tốt trước hết chiếc xe do mình phụ trách phải là xe tốt, mà muốn có xe tốt người lái xe phải "yêu xe như con, quý xăng như máu" chăm chút xe như chăm chút chính mình. Những ngày kỹ thuật anh leo vào trong xe, chui xuống gầm xe kiểm tra tỷ mỉ từng tý, thay dầu vít ốc, kiểm tra súng pháo, thiết bị thông tin. Những ngày bảo dưỡng xe, quần áo anh dính đầy dầu mỡ, do vậy ánh hiểu xe như hiểu con người, nghe tiếng máy nổ anh biết xe khỏe mạnh hay có vấn đề gì, chỉ cần máy nổ khác một tí là anh biết rằng ở đâu đó đã có sự cố. Trai như một "mẹ hiền" và "thầy thuốc" của xe, khi có nhiệm vụ là xe anh lên đường ra bãi tập được ngay. nếu xe có trục trặc kỹ thuật gì Trai như thấy mình có lỗi với đơn vị.
          Đài chỉ huy bắn ở Đồng Doi là ngôi nhà 3 tầng xây dựng từ khi còn các chuyên gia quân sự Liên Xô cũ sang giúp Nhà Trường, lúc ấy Đài chỉ huy là một công trình kiến trúc đẹp và hiện đại nhất vùng. Trên Đài chỉ huy lúc nào cũng có lá cờ đỏ tung bay trong gió trông rất kiêu hãnh,  tầng 2 và tầng 3 là lầu chỉ huy bắn; tầng 2 rộng rãi với các phòng và hành lang thoáng mát là nơi dành cho khách tham quan bắn và rút kinh nghiệm sau mỗi lần bắn đạn thật bằng các loai súng bộ binh và hỏa lực xong; tầng trệt là các phòng chức năng dùng để hội họp, thảo luận trong đó một số phòng để máy móc. Đứng trên tầng 3 của Đài chỉ huy bắn có thể quan sát thấy cả một vùng rộng lớn của thao trường huấn luyện Đồng Doi. Phía trước kéo dài ra xa là trường bắn; bên phải, bên trái là các thao trường huấn luyện chiến thuật, huấn luyện trinh sát với các điểm cao 94, 69, 77,8, 134 kéo dài tới đỉnh của cao điểm 335 tiếp giáp với huyện Lương Sơn của tỉnh Hòa Bình. Vùng thấp hơn là những bình độ thoai thải dùng để làm bãi tập bắn và huấn luyện lái xe bộc thép chiến đấu cho chuyên ngành Bộ binh Cơ giới. Chỉ huy Trường bắn Đồng Doi là Thiếu tá Nguyễn Văn Dũng, quê ở về nhận nhiệm vụ đã được   năm, thường xuyên gắn bó với hơn 10 đồng chí Quân nhân chuyên nghiệp thợ sửa chữa và chién sỹ có nhiệm vụ đảm bảo mọi mặt cho các đơn vị học viên vào bắn đạn thật và luyện tập tại thao Trường Đồng Doi. Các chiến sỹ làm việc ở đây ai cũng xạm đen vì nắng gió thao trường, điều lo lắng nhất đối với các anh là làm thế nào để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho bộ đội bắn cả ban ngày và ban đêm. Mùa hè thì nắng cháy da, cháy thịt, mùa đông rét buốt thấu xương, có buổi phục vụ bắn đến nửa đêm đói rét, nhớ nhà. Một mình ở vọng gác an toàn nhì ánh điện sáng xanh ở các nhà dân và khu đô thị mới, những cám dỗ đời thường luôn thúc dục, nhưng họ đã vượt qua tất cả để hoàn thành nhiệm vụ. Hết buổi bắn khi nhận được tín hiệu ở Đài chỉ huy báo an toàn các anh mới được sách súng trở về doanh trại thì đêm đã khuy, lẳng lặng, rửa chân chui vào giường nằm ngủ một mạch đến sáng nếu hôm đó không có phiên gác của mình, sáng ra phải dậy xớm để chuẩn bị các mặt cho một ngày mới phục vụ huấn luyện và bắn đạn thật của các đơn vị tiếp theo. Nhiều hôm phải phục vụ các đơn vị học viên bắn đạn thật ban ngày đến 12 giờ trưa, ban đêm đến hơn 1 giờ sáng mới xong.
          Trung đội có chưa đầy 20 người, số chiến sỹ mới nhập ngũ nhiều hơn lính cũ, các anh được giao nhiệm vụ bảo vệ thao trường, nên phiên hiệu đơn vị cũng đơn giản gọi bằng "Trung đội Bảo vệ thao trường" trực thuộc Tiểu đoàn 10. Bằng ấy con người nhưng được gia nhiêm vụ bảo vể cả khu vực Đồng Doi  với 561,5 hecta và giữ đất quốc phòng, quả là nhiệm vụ nặng nề, trung đội phải căng đội hình ra mới hoàn thành được nhiệm vụ. Đóng quân cách xa sự chỉ huy của tiểu đoàn, do trung úy Nguyễn Đức Hiếu làm trung đội trưởng, đảm bảo gác đêm trên 3 chốt, mỗi chốt 2 người, ban ngày tuần tra 4 ca sáng, trưa, chiều, tối, gồm 1 tổ 3 người đi 1 vòng tuần tra khoảng gần 10 Km 1 vòng, phương pháp đi tuần tra không theo quy luật, phát hiện các hiện tượng lấn chiếm đất quốc phong vi phạm an toàn thao trường, kịp thời ngăn chặn không để xảy ra các hiện tượng nảy sinh.
*
          Mênh mang Đồng Doi, từ thao trường này lớp lớp học viên tốt nghiệp ra trường như những cánh chim tung cánh toả đi khắp nơi trên khắp các chiến trường và mọi miền Tổ quốc, ở đó họ đã công tác, huấn luyện, quản lý đơn vị và chiến đấu kiên cường, nhiều người đã lập nên những chiến công vang dội. Trong số trên 8 vạn cán bộ ra trường về các đơn vị trong toàn quân, có hàng vạn đồng chí tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các mặt trận, hầu hết họ đã trở thành những sĩ quan chỉ huy giỏi, nhiều người đã chiến đấu quên mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc, mang lại niềm vinh quang cho đất nước, Quân đội và cho Nhà trường. Ngay từ những ngày đầu đánh Mỹ, trong trận ấp Bắc nổi tiếng có Nguyễn Triết Minh (tức Bảy Đen)-một cán bộ được đào tạo tại Trường sĩ quan Lục quân 1 đã chỉ huy một đại đội chiến đấu dũng cảm bẻ gãy nhiều đợt tiến công của địch, góp phần làm phá sản chiến lược tìm diệt bộ đội chủ lực Việt Nam của chúng. Nguyễn Triết Minh đã anh dũng hy sinh để lại nhiều tiếc thương và ý chí quyết đánh, quyết thắng giặc Mỹ cho đồng chí, đồng đội. Trong trận chiến đấu đánh chiếm cầu Quảng trị, thiếu uý Nguyễn Văn Thoả - một cán bộ của Nhà trường đi thực tế chiến trường đã chỉ huy một trung đội luồn sâu nổ súng tiêu diệt bốt giữ cầu Quảng trị của Mỹ Nguỵ, nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc,  Nguyễn Văn Thoả đã anh dũng hy sinh, vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất Quảng Trị anh hùng. Và những tấm gương hy sinh của Phạm Ngọc Khánh, Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Kim Tuấn... rất nhiều đồng chí khác đã anh dũng chiến đấu hy sinh trở thành những liệt sỹ vô danh, một số đồng chí đã cống hiến một phần xương máu của mình cho Tổ quốc, có đồng chí bị ảnh hưởng hậu quả chất độc mầu da cam và con cháu của họ phải gánh chịu, chính  họ là những học viên đào tạo tại Nhà trường mãi mãi trở thành bất tử. Tổ quốc này mãi mãi không quên ơn các anh hùng liệt sỹ đó. Cũng từ Thao trường Đồng Doi ra đi, gần 200 đồng chí học viên đã phấn đấu trở thành tướng lĩnh, hàng chục nghìn đồng chí là cán bộ trung cao cấp, giữ những cương vị trọng trách của Đảng, Nhà nước, Quân đội; 27 đồng chí được tuyên dương danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và anh hùng lao động; 12 đồng chí được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú, một số người trở thành các nhà Khoa học, văn nghệ sĩ, vận động viên xuất sắc phá kỷ lục Quốc gia và Quốc tế về các môn thể thao quân sự.

Nguyễn Văn Lai
















Dành cho thiếu nhi:
CHÚ CHÍCH CHOÈ CÓ GIỌNG HÓT HAY
––––

          DATE là chú chim chích choè mới rời tổ và chập chững biết bay, chú ta có giọng hót tương đối khá. Mỗi sáng sớm chú đậu trên cành xoan trước nhà cất cao giọng hót, tiếng hót của chú bay khá xa như báo hiệu và đánh thức những ai còn ngái ngủ. Bộ lông của DATE bóng mượt, trước ngực luôn đeo một chiếc tạp dề trắng mà bố mẹ chú sắm cho từ khi còn nhỏ, mỗi khi cất tiếng hót chú ưỡn ngực, kiễng chân, vươn cổ để bật ra những tiếng huýt gió cao vút, trông mới kiêu hãnh làm sao, xứng đáng là một chú chim đang trưởng thành không cần sự trợ giúp của chim bố mẹ nữa.
          DATE khác hẳn với những chú chim bình thường khác, bởi chú ta có tiếng hót vượt trội so với chúng bạn, nên chú tự hào lắm. Trước khi hót bao giờ chú cũng chọn cây cao nhất, cành cao nhất để đậu, không bao giờ chịu kém đồng loại, khi đã hót là chú hót thật nhiều, hót liên tiếp, hót say mê, hót quên cả những nguy hiểm có thể cận kề. Trong tiềm thức của chú, chỉ có giọng hót của mình là hay nhất, những chú chim khác không thể nào theo kịp. Chú nghĩ, giọng của mình chỉ có thể sánh với các loài chim khác như chim vàng anh hoặc chim hoạ mi mà thôi. Từ đó chú lại càng hót nhiều, mà ít chịu tập bay, chuyền cành để bắt sâu bọ, tự nuôi sống mình, dù đói chú cũng chỉ đợi chờ chim bố mẹ kiếm mồi về mớm cho mà thôi. Tuy đã rời tổ khá lâu, nhưng DATE vẫn được bố mẹ theo sát hướng dẫn dìu dắt tập bay, tập bắt sâu, chứ chú chưa thể tự mình bay đi kiếm sống được. DATE chưa bao giờ nghĩ rằng một ngày kia chim bố mẹ sẽ rời xa chú, để cho chú có cuộc sống tự lập, một mình kiếm sống nuôi thân thì sẽ khó khăn biết chừng nào. Cứ thế, chú quá tự tin, cứ sáng sớm DATE lại rời khỏi tổ chuyền lên cành xoan cao nhất, ưỡn ngược, vươn cổ có chiếc tạp dề trắng hót vang, làm ồn ào cả một góc làng quê.
          Đông Trung là một làng nhỏ, có bờ tre, giếng nước, sân đình; có tụi trẻ chăn trâu đen thủi suốt ngày chạy nhảy ngụp lặn ì ùm trên dòng sông nhỏ cạnh làng. Tuy làng nhỏ nhưng cây cối um tùm, làng quê trù phú, no ấm, hoa trái  thơm tho, nơi hội tụ chim chóc đông vui, nhưng đông nhất vẫn là chim sẻ đồng. Chim chích choè như DATE không nhiều, còn như loài vàng anh, hoạ mi, sáo sậu, chèo bẻo lại càng ít. Tuy nhiên, tụi trẻ chăn trâu làng Đông Trung cũng rất ghê gớm, đứa nào cũng có cây súng cao su đeo lủng lẳng ở cổ. Là chim mới lớn nhưng DATE đã rất sợ loại đạn từ súng cao su của lũ trẻ bắn tới.
          Khi còn bé, chim bố mẹ thường dạy dỗ và căn dặn DATE hễ trông thấy lũ trẻ chăn trâu đeo súng cao su thì hãy tránh cho xa, đùng gần chúng nó mà mất mạng như chơi. Tuổi trẻ phải tập hót và hót cho hay, nhưng đừng có hót say mê quá mà quên đi những nguy hiểm luôn rình rập. Khi cất tiếng hót thì cũng phải cảnh giác, đề phòng con người, nhất là những viên đạn bay ra từ súng cao su của lũ trẻ. Tốt nhất là hãy chịu khó tập bay để bay giỏi, bay xa, khi đậu trên cây cần  phải chuyền cành liên tục, thường xuyên thay đổi vị trí để tránh đạn bắn lén, không nên đậu một chỗ khá lâu mà nguy hiểm lắm đấy. Bố mẹ dạy thế, nhưng DATE cứ bỏ ngoài tai, chú ta vẫn cho rằng loài chim chính choè đã hót thì phải hót cho ra trò, hót say mê, hót vang trời, thể hiện rõ tính oai phong của mình, chứ đừng có hót choe choé như mấy anh chèo bẻo, tuy các anh ấy có sức mạnh của loài chim dũng cảm nhưng giọng hót thì không thể mê được, làm sao mà bằng giọng của loài chim chích choè. DATE thầm nghĩ, mình sẽ là một chú chim đi tiên phong trong việc tôn vinh giọng hót của loài chim chích choè, để cho khu vườn chim Đông Trung và thế giới loài chim biết được tiếng hót hay và sức mạnh của loài chim và dòng họ nhà mình. Chứ cứ như loài chim sáo, chim chèo bẻo lúc nào cũng khoác bộ áo đen xì nhưng vẫn được người đời kính trọng, tôn vinh. Còn loài chim chích choè của DATE hơn hẳn 2 loài chim kia nhiều thứ  như: hót hay, chịu khó, chăm chỉ dậy xớm, quần áo bảnh bao, có chiếc tạp dề trắng trước ngực nhưng vẫn bị đánh giá thấp hơn 2 loài chim đó, nghĩ mà tức anh ách. Vậy thì bây giờ sứ mệnh của DATE là phải lấy lại thương hiệu cho Chích choè. Nghĩ vậy, nhưng DATE rất ngại tập bay, ngại chuyền cành và ngại kiếm mồi, chú ta chỉ thích hót, vì khi hót sẽ thu hút được nhiều chúng bạn. Thế là chú ta không bao giờ nghe lời dặn dò, dạy dỗ của bố mẹ nữa, với chú chỉ có ăn và hót là 2 điều thích thú nhất. Vì DATE đang tuổi mới lớn, chưa thực sự trưởng thành luôn được bố mẹ cưng chiều nên chú càng lấn tới.
          Cây xoan mà thường ngày DATE vẫn đậu để cất cao giọng hót cũng cảm thấy rất vui khi có chú đến hót, nếu vắng DATE thì cây rất buồn. Mùa đông năm ngoái, khi chưa có DATE cây đứng lặng im, khẳng khiu trơ cành, không hề có tiếng chim líu ríu, lộc không nẩy mầm, lá chưa xanh được nói chi đến hoa. Thế mà mùa hè năm nay, khi DATE đến cây xanh tươi mầu lá, quả nặng chĩu cành, nhìn xa như một mảng mầu tươi mát vẽ lên không trung, chim chóc rủ nhau kéo về, phải chăng tiếng hót của DATE mang về tất cả. Nghĩ đến điều đó, DATE tự tin lắm, chú ta nghĩ rồi đây loài chim chích choè sẽ là chủ của khu vừon chim Đông Trung, còn DATE sẽ là chủ sở hữu cây xoan cao to này để hàng ngày cất cao tiếng hót, chào đón bình minh.
          Đối với lũ trẻ chăn trâu, những ngày hè là những ngày thích thú nhất, chúng được tự do chạy nhảy, được tắm sông, được bắn chim, bắt sáo. Lũ chim ở vườn Đông Trung hễ cứ thấy bóng bọn trẻ chăn trâu là nháo nhác bay đi, con nào mà chậm chân là có thể bị sứt đầu mẻ trán và mất mạng. Riêng DATE thì nghĩ khác, chú cho rằng tiếng hót của mình hay đến như vậy, chắc rằng lũ trẻ chăn trâu sẽ không đụng đến mình, chúng sẽ cho mình hót để chúng nghe cho vui tai. Một buổi trưa khi DATE đang say sưa hót bản nhạc thường ngày của nó thì có một lũ trẻ chăn trâu tới, chúng lom khom đến gần cây xoan nơi DATE đậu. Không hiểu chúng làm gì nhỉ? tại sao trong tay đứa nhào cũng lăm lăm khẩu súng cao su. Đến gần gốc cây, bất chợt chúng giương súng nhằm DATE bắn tới tấp. Úi chà, tý nữa thì mất mạng, may mà DATE kịp cúi đầu, rụt cổ lại, thế mà chúng vẫn bắn. Phải bay đi thôi! DATE nghĩ thế và cất cánh bay, mới bay được một đoạn không xa, DATE cảm thấy cánh mình đã mỏi rã rời, lại phải đậu xuống một cành bưởi thấp, thế mà lũ trẻ vẫn đuổi theo nã đạn về phía chú. Bay thôi, khẩn trương kẻo mất mạng, vừa bay chú vừa cất tiếng gọi bố mẹ nhưng chẳng thấy bố mẹ đâu. Mỏi cánh DATE lại phải đậu xuống một cành cây. Chưa kịp nghỉ ngơi và hoàn hồn thì lũ trẻ lại xuất hiện, hình như chúng phát hiện ra DATE là chú chim đang tập bay nên chúng không bắn nữa mà quyết định bắt sống. DATE lại cất cánh bay nhưng khoảng cách bay của chú cứ ngắn dần, ngắn dần, phía sau bọn trẻ đuổi gấp lắm. Vừa đậu xuống cành cây chú lại phải cất cánh bay đi, mà có bay nổi nữa đâu, thực ra chú ta đang chuyền từ cành này sang cành khác, quả là nguy hiểm đã cận kề. Vòng vây của lũ trẻ từ từ khép chặt, mấy lần DATE bị vồ trượt, chú ta lại cố hết sức cất cánh bay được một đoạn. Nhưng rồi mỏi quá, chú đành phải dừng lại và một cánh tay của đứa trẻ chăn trâu vươn ra vồ gọn được chú. DATE được đem về nhốt trong một chiếc lòng tre đan tạm, cậu bé cho DATE uống nước, ăn cơm-thứ thức ăn mà trong đời DATE chưa một lần được thưởng thức. Thời gian trôi đi, đói quá DATE đành phải nuốt thứ thức ăn có hạt mầu trắng nhạt phèo để sống. Từ nay DATE phải sống một cuộc sống tù túng, không được bay cao lên cành xoan để vươn cổ hót như mọi khi. Giờ này sống trong lòng tre, DATE nhảy cũng còn khó chứ nói chi đến bay, lâu ngày DATE cũng quên luôn cả hót. Chú ta thui thủi, âm thầm sống qua ngày và nuối tiếc những ngày tháng tự do phóng khoáng một mình trên cây cao tha hồ ca hót.          Giá DATE biết nghe lời cha mẹ, chịu khó tập bay, tập chuyền cành, thì khi gặp bọn trẻ chăn trâu đuổi bắn thì chú sẽ chú bay đi, thì đâu đến nỗi nào. Từ nay, bầu trời xanh cao là vậy, vườn cây tươi tốt là kia không còn là của DATE nữa, chú ân hận thực sự và nước mắt ứa ra từ khi nào chú đâu có biết.

                                                                   Nguyễn Văn Lai
HT 2CA-13 Sơn Lộc, Hà Tây
                                                          (Trường Sỹ quan Lục quân 1)


























Dành cho thiếu nhi:
CHÚ VOI ĐẦU ĐÀN BƯỚNG BỈNH
––––
          Khi rừng Tánh Sơn bị tàn phá nặng, KATA cùng đàn voi không còn nơi trú ngụ, chúng rủ nhau xuống phá phách nương rẫy của đồng bào các dân tộc trong bản. Đã có một số lều lán trông coi nương rẫy đã bị quật đổ, nương lúa, nương sắn, rẫy bắp, vườn chuối bị tàn phá nặng nề… KATA căm ghét con người, bởi vì họ mà khu rừng của loài voi sinh sống dần bị thu hẹp. Cứ ngửi thấy mùi mồ hôi của lũ người là KATA cùng đồng loại cảm thấy ớn lạnh và đáng ghét biết bao. Rừng càng bị phá, địa bàn kiếm ăn của bầy voi rừng càng gặp nhiều khó khăn hơn, sự căm ghét con người càng tăng lên. Đàn voi của KATA cứ lui mãi, lui mãi đến khi không còn lui được nữa, đường cùng KATA dẫn đàn voi xuống nương rẫy, làng bản phá phách. Thế là chúng không còn thấy sợ con người đáng ghét nữa, khi gặp chúng sẵn sàng tấn công vào bát cứ ai. Hoá ra, con người cũng chẳng có gì đáng sợ, khi gặp KATA và đồng loại, họ chạy thục mạng, có chống lại thì sức yếu đuối cũng chẳng làm được gì loài voi rừng. Được thể KATA và bầy đàn liên tục tấn công con người ở các lán trại trên nương. Nhằm những lúc ban đêm, họ ngủ say KATA và bầy đàn xông vào lán lục lọi đồ ăn, dẫm đạp lên người và vật dụng, dùng vòi quật đổ lán trại, đập phá xoong nồi, xé rách quần áo, chà sát nơi ở của họ. Và thế là họ sợ, bỏ cả lán trại chạy về bản, ban ngày không dám đi làm nương nữa, ban đêm không dám ngủ nơi chòi canh. Vì vậy, đàn voi tha hồ phá phách, nganh ngược, tung hoành nơi bìa rừng mà trước kia chúng không bao giờ dám đến.
          Cứ tưởng cuộc sống dễ chịu như thế sẽ kéo dài mãi mãi. Nhưng con người quả là tàn bạo chứ không nhút nhát, yếu đuối chút nào, họ bắt đầu đoàn kết chống lại KATA và bầy đàn. Dân bản tập hợp nhau lại dùng gậy gộc, trống mõ, thanh la xua đuổi bọn chúng, ra quân rất rầm rộ, nhưng hiệu quả chẳng được là mấy. Rồi họ dùng súng bắn chỉ thiên đì đoàng làm giật mình lũ voi, đạn vọt lên trời, chẳng hề thấy bay về phía chúng, không chú voi nào bị thương. Lũ voi nghe tiếng súng nổ nhiều, quen dần và chẳng thấy sợ hãi nữa. Làng bản, nương rẫy, chòi canh, ruộng lúa tiếp tục bị tấn công, thế mà lượng thức ăn cho KATA và bầy đàn trong tự nhiên cứ dần dần bị cạn kiệt, nguy cơ bị đói đang ngày càng trông thấy và đang trở thành hiện thực. Càng đói bầy voi càng phá phách, đồng bào không sản xuất được, con người và lũ voi luôn đối chọi nhau, ngày một thêm khốn khổ.
          Một buổi sáng, khi mặt trời vừa ló, hắt những tia nắng đầu tiên lên khu nương dẫy mới bị đàn voi tàn phá, KATA và đồng bọn trông thấy một tốp người lạ từ trên những "con voi" không có vòi, thân thể to hơn bọn chúng, có tiếng kêu khèn khẹt mà người ta thường gọi là xe ô tô tiến về phía bầy voi. Họ mang súng và những chiếc thừng to, chắc là bọn lâm tặc lại đi phá rừng đây, thật là đáng nghét. KATA chẳng sợ bọn này, có súng, chúng chỉ dám bắn doạ mà thôi. Súng đạn của bọn lâm tặc chỉ dùng để chống lại những người bảo vệ rừng thường gọi là kiểm lâm, chứ đâu có dám bắn lũ voi. Hiện nay, voi đang là động vật quý hiếm, ở đất nước này đàn voi có còn được mấy cá thể như KATA đâu mà sợ con người sát hại, nên bọn chúng cứ ngông nghênh đi lại kiếm ăn, chẳng có tí chút gì là sợ hãi cả. Bỗng có tiếng nổ vang lên, một, hai, ba…rồi nhiều tiếng súng, chắc lại bắn doạ đây mà, sợ gì !
          Bất chợt, KATA thấy hơi nhói và ngứa ngáy ở bên sườn, hay là trúng đạn của con người, nếu trúng đạn mà như thế này thì chẳng đáng sợ một chút nào. KATA cứ điềm tĩnh dùng vòi ủi đất lật từng củ sắn non đưa vào miệng nhai rau ráu. Thế rồi tự nhiên KATA thấy chóng mặt, nương sắn quay cuồng, khu rừng và những quả núi trước mặt cứ nghiêng nghiêng như xắp đổ. KATA vươn vòi cố giống lêng gọi cả đàn voi rút vào rừng sâu Tánh Sơn, nhưng bốn chân của KATA không thể nhấc nổi. Mặt đất quay cuồng, mắt chú ta tối xầm lại, rồi ngã vật trên nương và thiếp đi chẳng biết gì nữa. KATA và đàn voi đã bị trúng đạn có thuốc mê.
          Tỉnh dậy, KATA thấy mình và bầy đàn nằm ngôn ngang trên một khu rừng lạ, chú ta ể oải đứng lên dùng vòi đánh thức từng cá thể trong đàn tỉnh giấc, rồi cả đàn đủng đỉnh rút vào rừng sâu. Quả là cánh rừng mới rộng quá, cây cối to hơn, rừng rậm hơn, lượng thức ăn chắc cũng nhiều hơn. KATA dẫn bầy đàn tới một con suối nước chảy róc rách tìm nước uống và trú ngụ ở đó. Cánh rừng Đắc Lâm nghe tên quen thuộc, nhưng KATA chưa bao giờ đến, nghe nói ở rừng này đã có rất nhiều cá thể và bầy đàn voi đã ở. Đàn voi của KATA bắt đầu vào cuộc sống mới, nguồn nước đã có sẵn tha hồ uống. Cả đàn thấy đói và cùng nhâu đi tìm thức ăn, chao ôi cả một rừng chuối xanh rờn mắt mắt, KATA và bầy đàn hối hả ăn. Tuy nhiên, chuối ở khu rừng này nhạt quá, nó không đậm đà như chuối ở rừng Tánh Sơn, quả là khó nuốt. Đói bụng chúng cứ nuốt bừa, ăn để sống. Khi cả đàn đang mải mê cố nuốt những noãn chuối non cho ấm bụng, bỗng nghe rào rào, ầm ầm, KATA nhìn lên thấy một đàn voi lớn đang xông thẳng vào đàn voi của KATA tấn công. Thế yếu, cả đàn của KATA rút chạy ra bờ suối lánh nạn, chờ đêm tối chúng mới dám đến vườn chuối kiếm ăn. Nhiều lần KATA đi sâu vào rừng tìm nơi sống tốt hơn, nhưng cứ mỗi lần ra khỏi bờ suối là đàn voi của KATA lại bị những con voi rừng bản xứ tấn công dữ dội, làm cho cả đàn lại phải quay về nơi xuất phát. Từ đó, hàng ngày chúng chỉ được quanh quẩn nơi bờ suối, rồi đêm đếm được ăn món quan quen thuộc là những cây chuối nhạt phèo của đàn voi rừng bản xứ chưa dùng hết. Cuộc sống khắc nghiệt quá, đàn voi của KATA càng ngày càng khổ sở, gầy đến rơ xương, một số voi con đã kiệt sức, vì voi mẹ không còn sữa cho con bú nữa. Ngày qua ngày, lác đác đã có những chú voi gục ngã và lìa bỏ thế gian.
          Phát hiện ra sự nguy hiểm của đàn voi, do không quen với vùng đất mới, khu rừng mới, đàn voi có nguy cơ bị xoá sổ, con người liền mang đến cho lũ voi thức ăn để cứu chúng. Cơ thể voi to là vậy, rất cần một lượng thức ăn lớn. Những ngày đầu, con người mang theo rất nhiều  những món hợp khẩu vị, tạm đủ co cả đàn, nào mía, nào quả chuối chín, nào cám, nào ngô, rồi sắn khoai đủ cả. nhưng sau cứ ít dần, thưa dần, đàn voi to tướng ăn chả thấm vào đâu. Chắc là do giá cả tăng cao, hàng hoá khan hiếm hay con người bớt xén khẩu phần của đàn voi so với dự toàn ban đầu, nên đàn voi lại đói vẫn hoàn đói. Có thể nói chúng không thể thích nghi với vùng rừng núi mới này được.
          Bất chợt, KATA và bầy đàn nhớ lại vùng rừng Tánh Sơn quê hương của chúng, ở đấy cuộc sống mới phóng khoáng làm sao, rừng tuy có chặt chội một tý nhưng cuộc sống thì thật tuyệt biết bao. KATA chợt thấy ân hận vô cùng, giá như cậu ta và bầy đàn đừng có ngang tàng phá phách quá, đừng có đụng đến lũ người tàn bạo và đáng nghét kia thì đâu đến nỗi nào. Nếu đàn voi biết chịu đựng, không tham ăn quá mức, đừng phá nương, phá rẫy, quật người, phá nhà quá đáng, thì chắc là chưa phải chuyển đến chỗ ở mới như bây giờ, Nghĩ lại thì đã quá muộn rồi, KATA chỉ còn nuối tiếc, nước mắt chảy dài, cậu ta nhới lại những ngày tươi đẹp đã qua.
                                                                   Nguyễn Văn Lai
HT 2CA-13 Sơn Lộc, Hà Tây
MẸ VẪN ĐỢI BA VỀ !
––––

          Chúng tôi đến thăm bà vào một ngày đẹp trời, cách đường quốc lộ 21A không xa, ngôi nhà nhỏ của bà nằm trong một khu vườn đẹp, xanh tươi mầu lá, quanh vườn là những cây ăn quả toả bóng mát dịu dàng thuộc thôn Đoàn Kết, xã Cổ Đông, thành phố Sơn Tây-Hà Nội. Chỉ có bà và đứa cháu ngoại ở với nhau nên rất đầm ấm, yên vui. hai người con gái của bà đã trưởng thành và yên bề gia thất. Các chị lấy chồng cùng công tác một cơ quan, ở gần nhà nên thường xuyên đưa các cháu về thăm bà nên đỡ đi nhiều nỗi cô đơn khi tuổi già sức yếu. Thấy chúng tôi đến, bà vui vẻ mời vào nhà, sai đứa cháu ngoại lấy nước mời khách uống. Bà không ngạc nhiên khi biết chúng tôi là khách của Trường Sĩ quan Lục quân nơi các con bà công tác đến thăm như những lần trước. Lúc biết chúng tôi đến với bà không những để hỏi thăm sức khoẻ mà còn để lấy tư liệu viết về truyền thống gia đình của bà đã có những ngày tháng gian khổ cống hiến nhiều cho quân đội và cho nhà trường. Được hỏi về những ngày tháng đó, tự nhiên bà lặng đi giây lát rồi phấn chấn hẳn lên, bà hồi tưởng lại và say sưa kể, trí óc minh mẫn, giọng nói khoẻ khoắn và nhiệt tình, bà kể như lật giở từng trang, từng trang hồi ức chợt hiện về trong niềm vui xen lẫn sự bồi hồi, nhớ tiếc. Bà nhớ tới những ngày tháng gia khổ, ông bà đã vượt mọi khó khăn, cống hiến sức lực và trí tuệ nhỏ bé của mình vào sự nghiệp giáo dục-đào tạo của Nhà trường. mắt bà sáng lên khi kể tới người đồng chí đồng đội, người bạn đời của bà trong những năm tháng giữa cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đó.
          Mối tình của lính
          Năm 1954 Nguyễn Văn Mười-chàng trai Hương Xuân, Hương Trà, Thừa Thiên Huế từ chiến trường miền Trung khói lửa được ra Bắc tập kết. Đơn vị của Mười về đóng quân ở xã Thạnh Thanh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, nơi đây có phong trào cách mạng phát triển rất mạnh, ở thôn nào, xã nào cũng có đội dân quân và hội phũ nữ phát hoạt động tích cực. Nguyễn Văn Mười được bố trí ở nhà cô chủ tịch hội phụ nữ xã Thạch Thanh Trịnh Thị Mảy. Thời ấy, tình quân dân thật là nồng thắm, bộ đội thường đóng quân trong nhà dân, nhân dân rất yêu quý bộ đội. Mỗi khi có bộ đội về làng, nhà nào cũng nô nức muốn được đón các chú về ở. Lần ấy, được đón đoàn bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc, xã Thạch Thanh lại càng nhộn nhịp, xã giao cho hội phụ nữ đón tiếp, xắp xếp chỗ ở cho từng tiểu đội, trung đội. Là cán bộ phong trào Trịnh Thị Mảy hăng hái tổ chức các công việc, chị gương mẫu vận động gia đình và bà con đón bộ đội về nhà. Gia đình chị được đón một tổ ba người trong đó có chiến sĩ Nguyễn Văn Mười. Những ngày tháng đóng quân trên đất Hà Tĩnh, tình yêu giữa người chiến sĩ xứ Huế và cô hội trưởng hội phụ nữ xã Thạch Thanh, Hà Tĩnh nảy nở. Mối tình đó vượt qua những khó khăn, rào cản của phong tục tập quán địa phương, vượt qua những khoảng cách về địa lí, quê hương, những ngăn cách Bắc-Nam thời kì còn giới tuyến. Mối tình đó ngày càng nồng thắm, gắn kết nhau hơn. Nhưng nhiệm vụ của người chiến sĩ phía trước rất nặng nề, là nguồn cán bộ quân sự, Nguyễn Văn Mười được cấp trên cử đi đào tạo sĩ quan tại Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Họ bịn rịn chia tay nhau, hẹn ngày gặp lại, mặc dù chưa biết bao giờ Mười có thể trở lại quê hương Hà Tĩnh mến yêu. Mùa hè năm 1956, anh lên đường sang đất Bạn-nơi đóng quân của Nhà trường quân sự đầu tiên của Quân đội ta để học tập Khoá 9 Võ bị Lục quân- khoá học chính quy dài hạn của Quân đội.
          Vốn đã trải qua chiến trường, được chứng kiến và tham gia nhiều trận chiến đấu ác liệt, khi ra Bắc học tập, Nguyễn Văn Mười thấm thía trước sự mất mát hy sinh xương máu của đồng chí, đồng đội và đồng bào. Được tận mắt thấy cảnh bắn giết dã man tàn bạo của bọn giặc cướp nước và bè lũ tay sai bán nước. Nguyễn Văn Mười nung nấu đến một ngày nào đó lại được trở về miền Nam chiến đấu trên chính quê hương mình trả thù cho đồng bào. Anh hiểu, đi đào tạo sĩ quan là điều kiện rất tốt cho anh học tập, tiếp thu kiến thức về chiến thuật, kỹ thuật quân sự để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu sau này. Nhập trường, Nguyễn Văn Mười nhanh chóng hoà nhập và lao vào học tập, rèn luyện, anh thấy quý giá vô cùng những năm tháng hoà bình trên miền Bắc và trên đất bạn.
          Ở Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn vất vả và gian khổ là thế, nhưng hình ảnh người con gái Hà Tĩnh-Cô Chủ tịch Hội phụ nữ xã luôn trong trí nhớ của anh. Thời ấy, thông tin liên lạc cực kì khó khăn, họ chỉ liên lạc với nhau bằng những bức thư tình, nhưng nhiều khi cũng bị thất lạc và gián đoạn. Càng xa nhau, càng khan hiếm tin tức về nhau mối tình ấy càng nồng thắm. Mỗi bức thư, mỗi dòng tin nhắn qua người thân bạn bè lại trở thành nỗi khao khát gấp đôi. Nam 1959 kết thúc khoá học, Nguyễn Văn Mười cùng đồng đội trở về nước chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Do có kết quả học tập tốt Mười được giữ lại trường làm giáo viên Khoa Xạ kích, lúc này Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn đã chuyển về nước đào tạo. Nguyễn Văn Mười và Trịnh Thị Mảy đã tìm về với nhau và xây dựng gia đình. Đám cưới của cô thôn nữ Hà tĩnh- cô hội trưởng hội phụ nữ xã và một sĩ quan trẻ được tổ chức vui tươi, đầm ấm trên quê hương Thạch Thanh với tinh thần "vui duyên mới, không quên nhiệm vụ". Sau đó Mảy theo chồng ra đơn vị và được tuyển vào làm nhân viên nuôi quân của Nhà trường. Một năm sau cô con gái đầu lòng, kết quả của mối tình xa cách, thuỷ trung, trong trắng, nồng thắm ra đời được đặt tên là Việt Hoa (Nguyễn Thị Việt Hoa) mang đậm dấu ấn và có ý nghĩa của tình hữu nghị, đoàn kết Việt Nam-Trung hoa và là kỷ niệm không thể phai mờ của những ngày xa Tổ quốc. Việt Hoa ra đời là niềm hy vọng lớn lao, niềm vui tột đỉnh của đôi vợ chồng sĩ quan trẻ trong niềm chung vui của bạn bè, đồng chí và quê hương. Trong gia đình nhỏ của Mười ở khu tập thể Nhà trường luôn đầy ắp niềm vui và tiếng cười trẻ thơ và họ thực sự hạnh phúc. Mỗi ngày, Mười lăn lộn trên thao trường với những bài xạ kích súng ngắn, súng dài, lựu đạn, bọc phá… mồ hôi nhễ nhại, nhưng khi về gia đình được gặp con gái nhìn đôi mắt đen tròn, ngơ ngác, ngây thơ của bé Việt Hoa anh như quen hết sự mệt nhọc vất vả đó, niềm tin và ước mơ luôn tràn ngập.
          Cuộc sống trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa của những năm tháng hoà bình mới hạnh phúc làm sao. Nhưng nửa nước Việt nam vẫn còn trong xiềng xích của Mỹ Nguỵ, là sĩ quan chỉ huy Mười lại nhận nhiệm vụ mới. Ngày 27 tháng 12 năm 1961, Nguyễn Văn Mười được lệnh lên đường đi chiến trường B. Chia tay vợ và con gái anh theo đoàn cán bộ đi B tập trung tại Xuân Mai (Chương Mĩ, Hà Tây cũ) để chuẩn bị lên đường. Lúc này trong bụng vợ anh đã có một mần sống thứ hai hình thành. Khi chia tay vợ con lên xe Nam tiến Nguyễn Văn Mười hẹn ước với vợ nếu sinh con trai sẽ đặt tên là Thanh Huế để nhớ về quê hương Thừa Thiên Huế của anh, nếu sinh con gái đặt tên là Xuân Mai để nhớ những ngày chia tay đầy kỷ niệm ở địa danh Xuân Mai nơi khởi đầu của chuyến đi B hẹn ngày hoà bình trở lại. Sau này chị sinh con gái thứ hai đặt tên là Nguyễn Thị Thanh Huế để nhớ về quê chống Xứ Huế yêu thương mà chị chưa một lần được đặt chân tới.
          Vào chiến trường
          Rời Nhà trường đào tạo sĩ quan, Nguyễn Văn Mười được điều về Quân khu Trị Thiên và chiến đấu trên chính quê hương của mình, anh tham gia nhiều trận đánh Mĩ-Nguỵ ở Cồn Tiên, Dốc Miếu, ở thành cổ Quảng Trị. Đến đầu năm 1967 được điều về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 40, Trung đoàn bộ binh 1 thuộc Sư đoàn 2, Quân khu 5. Lúc này Trung đoàn 1 do đồng chí Nguyễn Chơn làm Trung đoàn phó kiêm tham mưu trưởng (sau này đồng chí Nguyễn Chơn là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân- Thượng tướng-Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng). Tiểu đoàn 40 của Nguyễn Văn Mười trong đội hình của Trung đoàn 1 đã chiến đấu nhiều trận, trong đó có trận tiến công cứ điểm Quang Thạnh diễn ra vào ngày 15 tháng 2 năm 1967 là một trong những trận chiến đấu thắng lợi có hiệu xuất diệt địch cao.
          Cứ điểm Quang Thạnh nằm trên địa bàn xã Sơn Kim, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, ở đây có trận địa phòng ngự của một tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến Mỹ thuộc Lữ đoàn "Rồng Xanh"và một đại đội bộ binh thuộc sư đoàn "Mảnh Hổ" của quân chư hầu (Nam Triều Tiên). Từ cứ điểm này, bọn giặc thường xuyên cho quân xuống càn quét, cướp phá, giết người cướp của các thôn làng Cẩm Sơn, Phúc Hậu 3, Phúc Hậu 4, thôn Tây Khánh, Trường Thọ, Trà Bình và xóm Ninh Long gây nên nhiều tang tóc, đau thương cho dân làng, lòng căm thù giặc của quân và dân Sơn Tịnh ngút trời, nhưng trước một cứ điểm phòng ngự mạnh như Quang Thạnh thì bộ đội địa phương và dân quân du kích không thể đập tan được, chỉ chờ quân chủ lực về chiến đấu. Trung đoàn bộ binh 1, Sư đoàn 2 Quân khu 5 được giao nhiệm vụ quan trong này. Nếu không xoá sổ cứ điểm Quang Thạnh thì nhân dân Sơn Tịnh sẽ còn khổ sở, chết chóc, đau thương ngày càng nhiều thêm, có gia đình người dân ở đây bị giặc đốt nhà, giết cha mẹ chỉ còn lại những em bé mô côi, tiếng kêu trả thù của đồng bào là nỗi day dứt và mệnh lệnh của cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 1. Tiểu đoàn của Nguyễn Văn Mười được giao nhiệm vụ tiến công trên hướng chủ yếu, đánh thẳng vào sở chỉ huy địch của cứ điểm phòng ngự Quang Thạnh. Sau khi đi trinh sát và được cấp trên cho biết tình hình địch, địa hình, Nguyễn Văn Mười thấy hướng tiến công chủ yếu do tiểu đoàn anh đảm nhiệm là nơi địch phòng ngự vững chắc, có hào sâu và nhiều lớp rào kẽm gai, mìn các loại dày đặc. Nhận nhiệm vụ khó khăn và quan trọng này, Nguyễn Văn Mười suy nghĩ, mình được cấp trên tin tưởng giao nhiệm vụ nặng nề như vậy chỉ bằng cách làm thế nào để đánh thắng mà thôi. Địa hình, tình hình địch đã nắm chắc, phương án tác chiến được cấp phê duyệt, tình hình tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ trong tiểu đoàn ổn định, có ý chí chiến đấu cao. Tuy nhiên, để bảo đảm chắc thắng, Nguyễn Văn Mười bàn với chính trị viên tiểu đoàn cần phải tiếp tục giáo dục chính trị, nâng cao tinh thần chiến đấu tốt hơn nữa cho chiến sĩ. Anh trực tiếp xuống các thôn làng của xã Sơn Kim mời những nạn nhân còn sống sót sau các vụ càn qué, cướp phát, tàn sát của giặc lên đơn vị kể lại cảnh bắn giết của chúng cho bộ đội nghe. Mọi người thấy như hiện lên trước mắt mình cảnh quân thù thọc lưỡi lê vào chỗ kín của phụ nữ, cảnh ông già bà lão bị chặt đầu, xẻo tai, trẻ con bị chúng cầm hai chân dốc ngược, quảng xuống đất trước sự đau đớn, la hét tuyệt vọng của những người mẹ. Nghe kể chuyện nhiều cán bộ, chiến sĩ trong tiểu đoàn không cầm nổi nước mắt, lòng căm thù giặc bốc lên ngùn ngụt, ý chí chiến đấu dâng lên cao hơn bao gờ hết, ai cũng muốn được cầm súng ra trận tiêu diệt cứ điểm Quang Thạnh trả thù cho bà con, nhân dân Sơn Kim. Ngay lập tức tiểu đoàn tổ chức buổi lễ phát động thi đua giết giặc lập công ngay tại chỗ, ai cũng đăng kí thi đua giết được nhiều giặc, dù có phải hi sinh thân mình.
          3 giờ 30 phút ngày 15 tháng 2 năm 1967, Tiểu đoàn 40 của Nguyễn Văn Mười được lệnh nổ súng tiến công, với khí thế căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết dánh dâng cao, Tiểu đoàn đã đánh phủ đầu quân địch, mở thông cửa mở vào trận địa phòng ngự của chúng. Sau những phút bất ngờ quân địch dựa vào trận địa phòng ngự kiên cố, vững chắc của chúng bắt đầu phản ứng, hoả lực băn ra dày đặc, ngăn chặn hướng tiến công của tiểu đoàn không cho phát triển. Tiểu đoàn 40 phải dừng lại trong chiến hào sốc lại đội hình tiếp tục tiến công vào trận địa phòng ngự của địch. Chính trong lúc gặp khó khăn như thế, Nguyễn Văn Mười nhớ lại kiến thức bài học chiến thuật ở Trường Võ bị về cách đánh tiến công địch trong trận địa phòng ngự vững chắc và anh đã tìm ra cách đánh phù hợp nhất. Dưới dưới sự chống trả mãnh liệt của định, chỉ có tiến công và tiến công thì mới giành được toàn thắng, bất chợt trong anh hình ảnh người vợ trẻ và hai đứa con gái ngây thơ đang nở nụ cười như khích lệ anh, tự nhiên Mười thấy như được tiếp thêm sức mạnh và niềm tin chiến thắng. Anh bình tĩnh chỉ huy đơn vị diệt từng ụ súng, lô cốt địch, mở thông cửa mở, đánh chắc, tiến chắc từng bước một, hạn chế đến mức thấp nhất thương vong xương máu đồng đội. Trận đánh diễn ra cực kỳ gay cấn và ác liệt, hướng tiến công chủ yếu của tiểu đoàn anh phối hợp với hướng tiến công thứ yếu của Tiểu đoàn 60 đã từng bước làm chủ được khu A và khu B của cứ điểm Quang Thạnh, thực hiện đúng ý định chiến đấu của cấp trên. Kết thúc trận đánh, toàn Trung đoàn tiêu diệt 420 tên địch thu nhiều vũ khí trang bị quân dụng. Từ đó nhân dân quanh vùng không bị bọn địch quấy phá, càn quét, đàn áp nữa. Trung đoàn 1 nói chung và tiểu đoàn 40 của Nguyễn Văn Mười nói riêng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
          Cuộc chiến đấu ở miền Trung vô cùng ác liệt và gian khổ, sau trận Quang Thạnh Nguyễn Văn Mười tham gia rất nhiều trận đánh trên chiến trường Quảng Nam, Quảng Ngãi, trong đó có cuộc tiến công và nổi dậy xuân 1968, anh là một trong những tiểu đoàn trưởng giỏi của Trung đoàn 1, Sư Đoàn 2. Ngày 25 tháng 5 năm 1968 Nguyễn Văn Mười ngã xuống trong một trận tiến công quân địch, máu của anh đã nhuộm đỏ đất Quảng Ngãi anh hùng, thịt xương của anh lẫn vào cây cỏ đâu đó của chiến trường xưa. Nguyễn Văn Mười hy sinh khi chưa kịp nhìn thấy mặt đứa con gái thứ hai và để lại người vợ trẻ và hai cô con gái nhỏ ngây thơ ở hậu phưong miền Bắc.
          Hậu phương vẫn nhớ
          Cuối năm 1962 trong căn phòng ở khu tập thể Trường Sĩ quan Lục quân 1 cô công nhân viên nuôi quân Trịnh Thị Mảy chan hoà niềm vui khi chị sinh cháu gái thứ hai, nhưng niềm vui ấy ở miền Trung, chiến trường Quảng ngãi, Nguyễn Văn Mười chưa được biết. Nhớ lại hẹn ước lúc chia tay anh đi chiến trường, chị Mảy đặt tên con là Xuân Mai, nhưng rồi xứ Huế quê chồng luôn là nỗi trăn trở băn khoăn vì chị chưa một lần được tới và người thân yêu nhất của chị hiện đang chiến đấu phía ấy, nên cái tên Thanh Huế được ghi vào giấy khai sinh và từ đó con gái thứ hai của anh chị được mang tên Nguyễn Thị Thanh Huế. Tin tức về anh ở chiến trường cứ ít dần rồi bặt hẳn. Chị Mẩy cứ âm thầm nuôi con từng ngày khôn lớn. Bé Việt Hoa và Thanh Huế đi học về là đòi mẹ cho xem ảnh ba, đọc thư của ba cho hai chị em nghe. Đến khi biết đọc Việt Hoa thường lấy những là thư đã nhàu vì đọc nhiều và cả lá đơn tình nguyện đi B của ba đọc cho Thanh Huế nghe, hai chị em nhớ ba lắm, Việt Hoa chỉ nhớ hình ảnh ba mang máng, bởi khi ba đi B chị mới hai tuổi, còn Thanh Huế chưa chào đời, nên hai chị em cứ bắt mẹ kể chuyện về ba. Biết ba ở chiến trường miền Nam đánh giặc anh dũng, hai chị em ngầm thi đua nhau học giỏi, chăm ngoan để đợi ngày ba về để được khoe với ba và nhận quà thật nhiều. Việt Hoa càng lớn càng học giỏi, những năm cuối của bậc học phổ thông ở Trường Tùng Thiện chị là một trong những cô học trò giỏi và chăm ngoan. Năm 1978, Việt Hoa là một trong số ít học sinh của trường Tùng Thiện lúc ấy đỗ đại học. Việt Hoa vào Đại học tổng hợp văn, được tiếp xúc với dòng văn học hiện đại, nhất là văn học trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ, Việt Hoa rất trân trọng, thấy cuộc kháng chiến của dân tộc mình vĩ đại quá, thiêng liêng quá. Để có được chiến thắng toàn vẹn, non sông thu về một mối, đất nước độc lập, tự do, Tổ quốc đã phải hy sinh biết bao người con đất Việt. Máu đào của các liệt sĩ đã tô thăm non sông, Chị biết trong huyền tích anh hùng đó có sự đóng góp xương máu của người cha kính yêu của mình. Hơn thế nữa, chị càng thấy sự hi sinh cực kì lớn lao của mẹ. Tiễn cha lên đường đi chiến đấu, mẹ một mình ở nhà nuôi con, ba hi sinh, mẹ âm thầm nuốt nước mắt và đứng vững trước nhứng cám rỗ, xa ngã của đời người con gái đang còn tuổi thiếu thời ở vậy nuôi con, vĩ đại quá, lớn lao quá. Quả thật, không có mẹ là chỗ dự lớn nhất về vật chất và tinh thần thì không biết chị em Việt Hoa và Thanh Huế sẽ như thế nào. Với chị, mẹ là đỉnh cao vạn dặm, mẹ là cánh chim bằng, mẹ là hòn vọng phu là bức tượng đài, bức phù điêu ngàn lần Hoa-Huế ngượng mộ. Mẹ ơi! con thương ba, con nhớ ba bao nhiêu, thì con thương mẹ bấy nhiêu và hơn thế nữa. Nhiều lần Việt Hoa thầm nói như vậy, cô nghĩ chỉ có học và học thật giỏi thì mới đền đáp công ơn ba mẹ mà thôi.
          Những năm tháng ngồi trên nghế của Trường Đại học tổng hợp văn, Việt Hoa lại càng thấm thía điều đó hơn nhiều lần, những bài văn hay mà thầy cô giảng về anh chiến sĩ, anh giải phóng quân Việt Hoa như thấy hình bóng Ba mình trong đó. Cúng như bao người lính, Ba đi ra chiến trường bằng cả nhiệt tình của tuổi trẻ,dẫu biết rằng sẽ phải chấp nhận những hi sinh "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Trong huyết quản của Việt Hoa luôn chảy dòng máu truyền thống của người cha thân yêu. Tốt nghiệp đại học, là con liệt sĩ Việt Hoa được tổ chức ưu tiên phân công đi làm cô giáo ở một trường sĩ quan Quân đội, nhưng Việt Hoa tình nguyện trở về Trường Sĩ quan Lục quan 1 thân yêu, nơi ba mình đã từng công tác, ở đó có mẹ vẫn ngày ngày tần tảo lao động nuôi con, ở đó có truyền thống của gia đình, có động lực để nâng mình lên trong cuộc sống. Việt Hoa sẵn sàng về trường với cương vị là nhân viên của Ban nghiên cứu khoa học, tạm thời gác lại ước mơ trở thành cô giáo được đứng trên bục giảng của những giảng đường mà thời sinh viên cô từng mơ ước. Dưới mái nhà tập thể Lục quân, 3 mẹ con đã hoà mình cùng với Nhà trường không ngừng phát triển và lớn mạnh. Từ một nhân viên Việt Hoa phát triển thành giảng viên, rồi phó chủ nhiệm, chủ nhiệm bộ môn Văn-Tiếng Việt, cùng các thầy cô trong bộ môn dạy cho học viên lớp trẻ những bài văn  của một thời gian khổ mà hào hùng của dân tộc về truyền thống Nhà trường. Hiện nay, Viẹt Hoa là trung tá phó Chủ nhiệm Khoa Ngoại ngữ-Tiếng Việt của Nhà trường, Thanh Huế là thiếu tá nhân viên Tài chính, hai chị em đã có chồng, con thành đạt và là những gia đình hạnh phúc.
          Mỗi lần về thăm mẹ, Việt Hoa lại đến bên bàn thờ Ba thắp nén nhang của tình phụ tử và biết ơn ba. Cám ơn ba đã cho con truyền thống gia đình, đã cho con dòng máu của Người, đã cho con cái ý chí mãnh liệt không chùn bước trước khó khăn, để hôm nay con nối tiếp con đường ba đã chọn. Ba ơi! dẫu ba có đi xa nhưng đồng đội của ba vẫn nhớ ba nhiều, các bác các chú có điều kiện vẫn đến thăm gia đình ta và thắp hương cho ba đấy. Thượng tướng Nguyễn Chơn-nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Thiếu tướng Trần Bá Khuê, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 5 mỗi lần đi công tác đến trường đều tìm đến thăm gia đình ta, thắp hương tưởng niệm ba và động viên các con cố gắng phấn đấu để không phụ công ơn của Ba. Chúng con đã làm được điều đó, ba cứ yên lòng. Mẹ ở nhà đã có chúng con lo. Mấy chục năm trời rồi, mẹ vẫn đợi ba về đấy ba ơi. Ba có linh thiêng xin phù hộ cho mẹ được khoẻ mạnh, để mẹ mãi là chỗ dựa vững chắc cho cuộc đời chúng con. Ba là truyền thống, mẹ là ngọn nguồn. Truyền thống của ba, ngọn nguồn của mẹ nâng bước chúng con đi, chắp cánh cho chúng con bay cao, bay xa. Công ơn đó chúng con ghi lòng, tạc dạ không bao giờ nguôi quên. Những dòng nước mắt của Việt Hoa cứ chảy dài mỗi khi đứng trước bàn thờ ba. Mẹ Mảy đã đứng bên Việt Hoa từ lúc nào không biết, mẹ ngậm ngùi thắp một nén nhang trân trọng dâng lên bàn thờ ba. Tay mẹ lần sờ bức ảnh đã ố mầu, mẹ lấy xuống lau đi lau lại, cố làm sạch thêm cho tấm hình, để mẹ con được nhìn ba rõ hơn. Ôi người mẹ Việt Nam, người mẹ nào cũng anh hùng như thế cả, mất mát, đáu thương và khói hương làm tóc mẹ bạc mầu. Mẹ vẫn đợi ba về đấy ba ơi!

––––––––













GÃ CHÓ LI-HU
––––––
          Nó là một con chó ghẻ, sắp chết, nhiều ngày bị đói, nó đi vật vờ, xiêu vẹo, vớ được cái gì  ăn cái đó. Không có chỗ trú ngụ, nó ngủ trong một cái hốc đất của khu nhà bỏ hoang, nó chỉ ra ngoài khi thấy thật an toàn, hễ có bóng người nó vội chui thụt vào ngay. Đói bụng, nó vạ vật đến các hố rác nơi người ta đổ đủ thứ bẩn và thức ăn thừa xuống đó, vớ được nó ăn vội vàng rồi nhanh chóng lại chui tọt vào hang nằm im. Tuy đã lớn nhưng cả ngày chẳng thấy nó sủa một tiếng, bụng đói rơ xương, thỉnh thoảng nó rên ư ử, trông thật cám cảnh.
          Một ngày kia, hôm đó nắng ráo, nhưng nó sợ không dám ra khỏi hang, đói quá, không chịu được nó lết tấm thân gầy nhom đến hố rác bên đưòng, không đủ sức, nó gục ngã trên đường đi, mắt nó vẫn mở, ngực nó thoi thóp, mồm rên đứt đoạn, nó nằm chờ chết, ngày tận số của nó đã đến, vấn đề chỉ còn là thời gian mà thôi !
          May thay, giữa lúc nó không còn hy vọng vào sự sống, bỗng có một người nông dân đi làm đồng qua chỗ nó nằm, thấy một con chó đáng thương xắp chết. Thấy động, theo bản năng, hai mắt nó sáng lên, cố lấy hết sức tàn kêu lên ư ử. Biết con chó còn sống, người nông dân đứng lại nhìn "Trời con chó này xắp chết đến nơi rồi, chắc đói lắm đây, thật tội nghiệp, thôi ta nhặt về đổ cháo cho nó ăn, may ra còn sống được để giữ nhà cũng tốt". Nghĩ thế, nên người nông dân miễn cưỡng nhặt nó lên bỏ vào chiếc rổ còn dính phân mang về nuôi. Từ hôm đó, nó được cứu sống. Do có sự chăm sóc tận tình của người nông dân, ngày qua ngày, nó lớn lên trông thấy, các nốt ghẻ lở bay dần đi, trước nó gầy rơ xương giờ đây ngày càng trơn lông, đỏ da. Nhà người nông dân đã có 2 chú chó ngang tầm tuổi nó, nhưng trông lớn hơn hẳn và nhanh nhẹn, da dáng. Cậu con trai ông chủ yêu quý lũ chó kia hơn nó. Biết thân biết phận nó đành âm thầm cam chịu những thiệt thòi. Khi ăn, bao giờ nó cũng phải ăn sau với khẩu phần ít hơn. Nhưng trong công việc nó lại là chú chó chăm chỉ và cần mẫn hơn, nó giữ nhà cẩn thận hơn nhiều, có chú gà nào mà bén mảng vào sân là nó xông ngay ra đuổi thẳng cổ, không cho gà làm bẩn sân của ông chủ. Nhà có việc gì quan trọng nó lầm lũi nằm một góc quan sát, không dám quậy phá, nhưng nếu có khách lạ, hoặc trẻ con chui rào vào vườn là chú ta lao ngay sủa gâu gâu, cắn gấu quần cố gắng giữ chặt lấy đối thủ, chờ ông chủ hoặc người nhà lên tiếng nó mới thả đối thủ ra, thể hiện sự mẫn cán và trung thành với chủ rất rõ ràng. Chính vì thế, dần dần nó được ông chủ và cậu con trai quý mến hơn cả 2 chú có kia. Được thể, nó càng làm tốt hơn công việc và bổn phận của một con có giữ nhà. Cái đáng quý là nó không bao giờ tranh ăn khi có mặt ông chủ và người nhà, chỉ khi nào chủ nhà đi vắng thì nó mới thể hiện bản tính tàn bạo của một con chó hoang, có cái gì ăn được là nó cướp ngay và cho vào mồm nhai ngấu nghiến, 2 chú chó nhà biết nhưng không làm gì được nó. Nhỏ người nhưng nó rất nhanh và khoẻ, mũi nó rất thính, chân nó chạy rất nhanh, cái nhanh bản năng tranh ăn của chó hoang. Về mọi mặt nó hơn hẳn 2 chú chó kia hợp lại. Bởi thế, khi chủ vắng nhà là nó lấn át tất cả, nó chỉ hiền từ khi có chủ ở nhà lúc này nó dễ bảo, đáng thương, nhường nhịn và cam chịu làm sao. Phải thừa nhận là khi ông chủ cần thì nó rất được việc, chủ ra đồng nó tung tăng chạy trước dẫn đường, mũi ngửi ngửi ra điều tích cực lắm. Ngoài ruộng, hễ thấy bóng con chuột nào là chết với nó, bản tính chó hoang trỗi dậy, nó lao đến vồ được ngay. Nó xục xạo từng chiếc hang, đánh mùi phát hiệt ra cái hang nào có chuột, rồi sủa gâu gâu báo cho chủ biết. Bởi vậy đi đâu ông chủ và cậu bé cũng muốn cho nó đi theo, dần dần nó chiếm được cảm tình với lòng tin của ông chủ. Từ chỗ chỉ là con chó hoang ốm yếu, đến giờ nó trở thành là một con chó nhanh nhẹn và khoẻ mạnh được chủ tin dùng nhiều hơn. Hai chú chó nhà vai trò bị mờ nhạt hẳn đi, suốt ngày bị chủ nhà quát mắng là vô tích sự. Mặc dù công lao của các chú không kém gì gã chó hoang kia. Ban đêm hoặc khi vắng chủ gã chó hoang ngủ khì, ban ngày lười chảy thây, nhưng khi nghe tiếng chủ về từ xa nó đã bừng tỉnh dậy, xăng sái, chạy ra, chạy vào ra điều ta tích cực lắm. Ông chủ và cậu bé ngày càng yêu thích gã ta hơn và đặt cho nó một cái tên nghe rất Tầu: Li Hu. Từ đó mỗi khi nghe tiếng huýt sáo của cậu bé hay nghe ông chủ gọi Li Hu là nó có mặt ngay. Gã rất hiểu ý ông chủ và cậu bé, vứt ra một vật gì, chỉ cần gọi Li Hu lấy về đây là gã ta lao ra cắp lấy mang về cho cậu chủ ngay, dù xa đến mấy vật đó là cục đá đã ném vào bụi rậm gã vẫn nhận đúng. Ban ngày đàn gà đang kiếm ăn quanh vườn chỉ cần ông chủ ném một vật gì đó về phía chú gà nào và như muốn bảo "Li Hu bắt nó cho ta" là gã lao đến bắt ngay được chú gà đó để ông chủ mổ thịt, tất nhiên gã cũng được phần gặm những khúc xương. Từ đó, gã ta ngày càng coi thường hai chú chó nhà đáng thương, với bản tính ranh mãnh, nhanh nhẹn của chó hoang, gã bắt đầu chèn ép hai chú chó nhà. Khi chủ cho ăn, gã ngồi nhìn chưa ăn vội, để cho hai chú chó nhà bắt đầu ăn, lừa lúc chủ không để ý, gã lao vào cắn bật các chú ra khỏi chỗ thức ăn, rồi điềm tĩnh lui ra góc sân ngồi nhìn như có vẻ hiền từ lắm. Khi chủ quay lại cứ tưởng rằng hai chú chó kia tấn công gã trước, rồi thì tiếng quát mắng đổ dồn về hai chú, thậm chí mỗi chú còn phải nhận thêm một cái đá của cậu bé, thật tội nghiệp và đáng thương. Lúc này gã mới mon men đến chỗ thức ăn hầu như còn nguyên vẹn ăn lấy ăn để và chẳng để giành một tí gì cho hai chú chó kia. Biết vậy, nhưng hai chú chó nhà đáng thương đành chịu, bởi giờ đây sức lực của chúng cộng lại cũng không thắng nổi gã chó hoang. Gã ngày càng lớn lên trong thấy, bốn chân gã cao, bụng thon, tai dõng, mắt đỏ ngầu, mõm to, răng nanh dài và sắc, gã mà cắn thật là không dễ chịu chút nào. Cuộc sống cứ thế duy trì đều, gã ngày càng hung hăng hơn, hai chú chó nhà ngày càng yếu đuối và nhút nhát, đến đuổi một con gà ra khỏi sân cũng khó, nói chi đế chống lại gã chó hoang.
          Một ngày kia, khi cậu bé đã lớn khôn, đi học xa trên thành phố, ít khi về thăm quê; ông chủ ngày càng già yếu, không đủ sức để làm những việc nhà và cũng chẳng thể quát mắng được lũ chó nữa. Bản chất chó hoang của gã Li Hu ngày càng bộc lộ rõ ràng. Gã tác oai tác quái, bắt đầu là gã lục nồi ăn vụng, nếu thức ăn hoặc cơm nguội chủ nhà không treo cao là gã xơi tất. Gã đuổi đàn gà chạy tao tác trong sân, dồn đến một góc vườn, bắt dần những chú gà con xé thịt ăn ngang nhiên. Ông chủ biết nhưng không đủ sức ngăn cấm gã, đàn gà cứ hao dần theo năm tháng, mà gã thì càng béo tốt và ngang tàng hơn. Khi khách đến thăm nhà, gã ta sủa ầm ĩ, rồi lừ lừ đi vòng phía sau cắn trộm làm khách đau đớn, ông chủ thì mất mặt. Quát tháo thế nào gã cũng không nghe, lấy gậy đánh, gã chạy ra xa quay đầu lại nhe răng gầm gừ. Tệ hại hơn là gã bướng bỉnh ra mặt, sức yếu ông chủ đành bất lực, không tài nào làm gì được, đến là khổ sở với gã, hầu như gã làm chủ gia đình. Từ đó gã ngang tàng phá phách, cắn người, cắn súc vật. Hành động của gã dẫu trong khuôn khổ gia đình nhưng không qua khỏi con mắt của an ninh xóm. Một buổi sáng, gã thấy hai an ninh xóm vào sân, chợt gã nghe tiếng rít gió và loang loáng của hai chiếc gậy vụt tới tấp vào đầu vào lưng gã, gã thấy đau nhói trên đầu, mặt mũi tối tăm mù mịt, gã quỵ xuống chết nhăn răng, lè lưỡi. Ông chủ không thèm ăn thịt gã, hai thanh niên an ninh xóm xỏ gậy khiêng gã về bắc nồi mổ thịt. Từ đó, người ta không còn thấy tiếng sủa của gã chó hoang ở nhà ông chủ nữa.
                                                                   Nguyễn Văn Lai





CHÚ NGỰA Ô VÀ NHỮNG CÚ ĐÁ HẬU
–––
          Nó là chú ngựa non, giống ngựa Đông Á được đưa từ một vùng quê về vườn thú quốc gia nuôi dưỡng. Tên chú là ĐOLY, mầu lông của chú ta đen tuyền, óng ả đến lạ lùng, chú ngựa đang tuổi lớn, có tiếng hí vang rất cao giọng. Quả thật là một chú ngựa xông xáo, trên đồng cỏ trong vườn thú, chú tha hồ tung tăng, sải những bước dài vượt xa các chú ngựa cùng trang lứa. Đúng là một chú ngựa ô tuyệt đẹp, trông chú mới kiêu hãnh làm sao. Từ nơi xa xôi, dưới sự cai quản của một đứa trẻ mục đồng luôn kè kè bên cạnh chăn dắt chú, ở đó chú ta chưa bao giờ được tự do. Nay thoát khỏi vùng quê nghèo đói, được nhập vào đàn gia súc trên đồng cỏ mênh mông của vườn thú quốc gia, chú ta như chim sổ lồng, bay nhảy tung tăng, mới khoe hết được sức mạnh của tuổi trẻ. Chân chú thon dài, móng tròn nhỏ, diện tích tiếp đất ít, nên chú chạy rất nhanh, 4 vó chú cứng cáp, chân sau khoẻ và chắc chắn, thỉnh thoảng chú ta chúi người phía trước bật 2 chân sau lên cao tạo thành một cú đá hậu dũng mãnh như một cơn sấm sét. Những cú đá như thế chú doạ được khối người. Mặc dù chưa đá trúng ai bao giờ, nhưng những cú đá hậu của chú thực sự tạo nên sự kinh hoàng cho các loại động vật 4 chân trên đồng cỏ. Nhiều lần chăn thả đàn gia súc, cậu chủ phát hiện ra chú ngựa ô tinh nghịch này có những cú đá hậu hùng dũng đó, nên cậu thích chú ta lắm. Mỗi khi đàn gia súc được thả ra khỏi khu nhốt, bao giờ chú ta cũng xông xáo băng lên trước, chạy dẫn đầu cả đàn theo hướng doi chỉ của cậu chủ đến khu đồng cỏ. Khi cậu chủ bỏ doi xuống chú ta cất tiếng hí vang như báo hiệu với cậu chủ rằng "Tôi tuyệt đối chấp hành cái doi của cậu".
          Trên đồng cỏ, chú ta được tin dùng như một con gia súc đầu đàn, chú chạy tới, chạy lui bao quát đàn gia súc thay cho lũ chó chăn ngựa của cậu chủ. Chú vừa ăn vừa quan sát đồng loại, hễ có một chú ngựa, chú dê hay chú bò nào tách khỏi đàn là chú lao đến tung cho một cú đá hậu trời giáng, làm cho không một gia súc nào giám chống lại sự cai quản của chú. Duy chỉ có một lần chú ta định ép con bò mộng đi chệch hướng doi chỉ của cậu chủ là chú bị dính sự phản đòn của chú bò đực rất khoẻ mạnh đó mà thôi. Lần ấy, từ phía sau đàn gia súc chú ngựa non phóng lên ép sát con bò mộng vào đàn, bất ngờ bị nó vặc chiếc sừng dài và nhọn hoắt vào mặt, đau điếng, may mà không trúng mắt, chỉ bị sựợt nhẹ nơi mi mắt toé máu. Ngay lập tức, cậu chủ phi ngựa lên quật tới tấp doi da vào mông con bò và bắt nó đi vào đàn đúng hướng. Chú ngựa ta nhận được sự bênh vực và giành được cảm tình, sự yêu mến, tin tưởng cậu chủ. Là ngựa non nên chú mau lành vết thương, nhưng trên vành mắt vẫn còn một vết sẹo như thường trực cảnh báo chú ta "Hãy coi chừng những cặp sừng nhọn đó, đừng có dựa vào ông chủ mà đá hậu lung tung".
          Tuy nhiên, trên đồng cỏ chú ngựa ô này rất được việc, cậu chủ chỉ việc thả đàn gia súc rồi đi chơi hoặc làm việc khác, việc canh giữ và chăn dắt gia súc đã có chú ngựa non lo. Cả ngày trên đồng cỏ chưa bao giờ thấy chú ta thôi chạy nhạy, nếu không gặm cỏ thì chú ngẩng cao đầu quan sát đàn gia súc chứ không bao giờ nằm ể oải như những chú bò, chú dê khác. Có lần đàn gia súc bị những con chó rừng tấn công, cũng bằng những cú đã hậu dũng mãnh, chú ngựa ô đã hất tung con chó rừng đầu đàn ra xa, kêu ăng ẳng, làm cả bầy chó sợ hãi chuồn thẳng. Cũng có lần bầy chó rừng rất đông đang đói tấn công rất quyết liệt, biết một mình khó chống lại, chú ta hí vang báo hiệu khẩn cấp cho cậu chủ biết. Khi cậu chủ ra đến nơi, đàn chó rừng đã bắt mất một chú bê non, còn chú ngựa ô đang tung vó đá hậu lung tung ra điều tích cực tấn công kẻ thù lắm. Từ đó, cậu chủ hiểu được sự bất lực của chú ta và lòng tin của cậu đối với chú bị giảm sút đáng kể. Chú ngựa non cũng biết được điều đó, vì thân phận chỉ là ngựa, với khả năng bảo vệ đàn chỉ đến thế là cùng, nhìn ánh mắt cậu chủ chú hiểu. Bất lực với lũ chó rừng luôn tấn công đàn gia súc, ngược lại chú ngựa non càng hung hăng bắt nạt những kẻ yếu đuối và chậm chạp như lũ bò, dê trong đàn. Những con bò già, dê non chỉ cần đi chệch khỏi đàn hoặc tách xa một đoạn là chú tung những cú đá hậu răn đe. Sự hung hăng của chú ngựa non nhiều lúc cũng quá đáng, chú ta tự do ngoài "vòng pháp luật", khi thì ở cùng đàn, khi thì chạy vụt lên, có lúc lại nhởn nhơ sát bìa rừng nhẩn nha gặm cỏ chẳng để ý gì đến sự nguy hiểm cận kề từ những bộ răng nanh của lũ chó rừng có tài săn mồi cự phách. Thấy thế cậu chủ nhiều lần quát mắng chú ta, thậm chí còn giơ roi định trừng phạt chú, nhưng chú bưởng bỉnh co cẳng chạy xa, cậu chủ chẳng làm gì được. Có lần cậu chủ còn bị chú ta vùng vằng đá hậu suýt làm bị thương, may mà cậu chủ tránh được và cũng kịp cho chú một doi da đau điếng. Từ đó, chú ngựa ít nghe lời cậu chủ, chỉ nghe theo sự điều khiển của ngọn doi da chuẩn bị vụt vào mông mà thôi. Chú ta tỏ ra bất cần, thỉnh thoảng tung những cú đã hậu vào không khí nghe vun vút như có ý muốn doạ ai "xin đừng đụng vào tôi".
           Ngày qua ngày, lúc không có mặt cậu chủ, chú ngựa cứ ngang tàng phá phách, chú tung vó đuổi đàn gia súc chạy hết bãi cỏ này đến bãi cỏ khác, không cho ăn cỏ ổn định tại một chỗ. Rồi đàn gia súc cứ gầy đi trông thấy, lượng sữa ít hẳn, vườn thú buồn thiu. Cậu chủ biết được, nhưng tiếc chú ngựa non khoẻ mạnh, xông xáo nên bỏ qua mọi chuyện và cứ thế chú ngựa non có cuộc sống tự do phóng khoáng. Hàng ngày chú ta thích ăn cỏ cùng đàn hoặc tách ra khỏi đàn cũng được. Mỗi buổi sáng khi đàn gia súc được thả ra là chú ta phi thẳng đến bìa rừng nơi có những vạt cỏ mật non tơ để chén thoả thích. Nơi đây các loại gia súc khác không dám bén mảng vì sợ lũ chó rừng tấn công, còn chú ngựa non chẳng sợ chút nào. Chú cậy vào đôi chân thon khoẻ, chạy nhanh lại có những cú đá hậu tuyệt vời. Chú yên chí và cho rằng nếu có con chó rừng dại dột nào tấn công thì khó tránh khỏi cú đá trời giáng của chú. Sự hấp dẫn của những ngọn cỏ mật non tơ cứ đưa chú tách xa khỏi đàn gia súc, tiến sâu vào rừng hơn. Đến một ngày, khi đang thưởng thức sự ngon lành của hương cỏ mật, lúc chú ngẩng lên bỗng thấy nhiều đôi mắt đỏ ngầu của bầy chó rừng hung ác. Bất giác cả lũ chó xông thẳng vào tấn công chú trên nhiều hướng. Bằng thế võ cổ truyền chú ngựa non tung ra những cú đá hậu, nhưng đàn chó lì lợm và ranh mãnh kịp thời né tránh được. Chúng rai rẳng bám riết tấn công, cả đàn chó quây tròn và bám chặt lấy chú ngựa, cắn chân, cắn mũi, nhảy lên lưng, vồ vào mắt vào tai… Chú ngựa ta quay tròn chống đỡ, cố gỡ thế để thoát ra khỏi vòng vây của lũ chó rừng, nhưng lại càng bị vây chặt hơn. Xung quanh chú ngựa, cả đàn chó bám riết và tha hồ cắn xé. Đuối sức, chú từ từ gục xuống để cho lũ chó rừng chết tiệt thoả thích giằng co.
           Chỉ một giờ sau, người ta không còn thấy bóng dáng chú ngựa non đâu nữa, ở cạnh bìa rừng còn sót bộ xương ngựa tươi nguyên. Cái giá phải trả quá đắt, giá như chú ngựa non biết nghe lời cậu chủ và biết giữ kỷ luật của đàn gia súc thì đâu đến nỗi gì. Bây giờ thì quá muộn, hỡi chú ngựa non háu đá đáng yêu ơi!
                                                                   Nguyễn Văn Lai





CHÚ CHÓ TÂY CHĂN BÒ TRÊN ĐỒNG CỎ
––––
          VêNa là một chú chó Tây được đưa từ vùng ALASKA xa xôi của nước Mỹ về thảo nguyên phương Đông để chăn bò. VêNa đang ở tuổi trưởng thành, bên đồng cỏ nước Mỹ nó đã từng được dùng để chăn cừu cho các ông chủ trang trại. Nhưng vì chưa đủ khôn so với chúng bạn đồng loại, làm việc vẫn còn chểnh mảng và tham ăn. Khi có người đến trang trại hỏi mua chó về chăn bò, chủ trại đã quyết định bán VêNa để họ đưa về xứ Viễn Đông làm việc. Được nhốt vào cũi, đưa lên máy bay đi suốt hơn 10 tiếng đồng hồ về miền Đông Á, VêNa không tỏ ra phản ứng gì cả. Nó chỉ hơi băn khoăn rằng, rồi đây được cai quản, chăn dắt những chú bò to tướng, toàn cơ bắp, khác hẳn loài cừu mềm mại liệu có khó không? Nhưng khi xuống thảo nguyên trên cương vị là kẻ cai quản, tiếp xúc với những chú bò ngu si và ngớ ngẩn VêNa thấy dễ chịu hẳn. Ôi chao! thảo nguyên rộng mênh mông quá, với những đồng cỏ xanh mướt mắt, những chú bò đủng đỉnh gặm cỏ. Buổi sáng, bình minh lên, chiếu những tia nắng xanh rải khắp thảo nguyên. Những giọt sương còn vương trên ngọn cỏ gặp ánh mặt trời long lanh giống như những viên ngọc, đẹp đến lạ kỳ. Xa xa là những quả đồi bát úp và những vạt rừng nham nhở chắc đã bị lâm tặc tấn công. Những mái nhà sàn bên vách núi, gợn sau những làn khói mờ buổi sáng, cũng đẹp như một bức tranh bột mầu mới vẽ, rất thanh thản và bình yên. Điều đó chỉ có ở nơi này, bên xứ sở xa xôi của nó không thể nào có được. Tự nhiên VêNa cảm thấy thích thú, nó muốn được thả ngay ra thảo nguyên để được chạy nhảy tự do, với đôi chân dài của chó Tây nó tha hồ làm chủ thảo nguyên. Nguyện vọng của nó đâu đã được thực hiện ngay, VêNa được đưa về nhốt trong khu nhốt chó chăn bò của thảo nguyên. Tại đây, VêNa được sống chung với những con chó thuần chủng phương Đông nhỏ nhắn và ranh mãnh, gần đó cũng có một vài chú chó Tây già đang bị xích với dáng mệt mỏi, chắc giờ đây không được chủ tin dùng nữa, mắt của chúng gườm gườm, hằn học nhìn VêNa có vẻ rất bực bội. Ngày mai chắc VêNa sẽ được lĩnh "ấn tiên phong" trên cương vị chú chó đầu đàn, cùng với lũ chó phương Đông chăn bò trên thảo nguyên-Nó nghĩ như vậy và thấy rất đáng ghét những chiếc răng nanh trắng dài đang nằm ở miệng của những chú chó Tây già đang nhe răng doạ nạt nó, may mà chúng đã không còn được tin dùng nữa.
          VêNa đã có thâm niên trong nghề chăn cừu ở Bắc Mỹ nhưng chưa nhiều, nay chuyển sang chăn bò ở phương Đông nên cũng không khác nhau mấy, VêNa trổ tài được ngay. Trên thảo nguyên mênh mông đầy nắng và gió của xứ xở nhiệt đới Viễn Đông, VêNa thấy dễ chịu hơn ở xứ tuyết Bắc Mỹ. Chăn lũ bò sữa chậm chạm này cũng không khó. Với thân hình thon chắc, 4 chân cao dài của giống chó Bécgiê nên VêNa cùng với những con chó săn thuần chủng phương Đông dễ dàng làm chủ đồng cỏ. Chỉ có điều chăn cừu khác hẳn chăn bò. Đàn cừu phương Bắc có bộ lông trắng muốt, dày đẹp và có kỷ luật nghiêm minh và tính cộng đồng cao. Sống trong khu nhốt, những chú cừu ngoan ngoãn luôn dựa vào nhau, tuyệt đối trung thành và chấp hành mệnh lệnh của chủ, không ngang tàng, phá phách, biết nhường nhịn nhau khi ăn cũng như khi uống. Lúc chăn thả trên đồng cỏ, đàn cừu cũng ngoan ngoãn tuân theo một qui tắc nhất định, luôn đi thành đàn, ăn cỏ tập trung, biết nghe theo sự giám sát của chó chăn cừu, ít chạy nhảy tung tăng, đi đến nơi về đến chốn. Còn đàn bò ở miền Nhiệt đới này khác hẳn với đàn cừu Phương Bắc, thân hình những con bò to lớn, thô kệch, mầu lông không thuần nhất, con vàng, con trắng, con khoang. Tính tình đàn bò thì bướng bỉnh khó bảo. Trong khu nhốt chúng thường xuyên mất trật tự, lúc no thì xô sát, húc nhau liên miên, khi đói thì vươn cổ giống lên ồ ồ. Khi chủ mở cổng chuồng thì chen chúc lao ra chặt chội, chẳng con nào chịu nhường con nào, thậm chí còn vặc nhau chảy cả máu đầu, máu tai. Khi được thảnh thơi trên đồng cỏ bao la, ít khi chúng tập trung ăn theo đàn mà thường tách ra từng tốp một vài con theo từng "gia đình nhà bò". Chỗ này một vài chú bò mẹ và bò con, chỗ kia một gia đình bò khác. Những chú bò đực cồng kềnh, vênh váo chạy từ nhóm bò này đến nhóm bò kia làm nhiều điều bạy bạ, chẳng có kỷ luật gì hết. Thậm chí, khi hứng lên chúng còn ngẩng đầu, cong đuôi phóng bạt mạng từ đầu đàn bò đến cuối đàn bò hoặc chạy từ góc đồng cỏ này đến góc đồng cỏ kia, thật là vô kỷ luật. Chăn thả đàn bò phương Đông này quả là mệt, VêNa thỉnh thoảng  phải phóng lên ngăn cản không cho những chú bò đực hỗn láo tách xa khỏi đàn hoặc mỗi khi chúng có hành động càn quấy, phá đám, thế mà đôi khi chúng chẳng chịu nghe lệnh, lại còn xịt mũi, vặc sừng chống đối ra mặt.
          Chỉ có đàn áp và tàn bạo thì mới chăn dắt dàn bò phương Đông tốt được thôi. Từ đó, VêNa phát huy sức mạnh cơ thể và hàm răng sắc nhọn của mình (một chú chó Tây chăn cừu) để trừng trị lũ bò phương Đông bướng bỉnh. Ban đầu VêNa bắt nạt những chú bò non, thường được gọi là những con bê, bằng cách tấn công khi chúng ể oả nằm một chỗ, chẳng chịu ăn cỏ gì cả. VêNa nhảy bổ vào chúng cắn và bắt chúng đứng dạy ăn cỏ hoặc chạy về phía mẹ chúng rúc đầu vào bầu vú to tướng tu sữa ừng ực. Từ đó nhiều con bê hễ nhìn thấy VêNa là sợ đến phát khiếp, rồi ngoan ngoãn chấp hành nội quy của đàn. Khi đã bắt nhạt được những chú bê non mà không thấy bò mẹ, bò bố có phản ứng chống đối gì, VêNa bắt đầu tấn công sang bò lớn, chú ta nhằm vào những con bò đực tách ra khỏi đàn chạy nhảy, không chịu ăn cỏ để cắn xé. Bằng hàm răng sắc nhọn chú lao vào cắn chân cắn mõm, nhằm khuất phục những chú bò bướng bỉnh. Bị đau những con bò phương Đông dần dần phải theo sự điều khiển của VêNa.
          Từ đó, hàng ngày trên đồng cỏ mêng mông của thảo nguyên, VêNa thoải mái đàn áp lũ bò, hễ thấy con nào có dấu hiệu tách ra khỏi đàn là VêNa tấn công ngay, đàn bò đến khổ sở vì sự đàn áp của VêNa. Kỷ luật trên thảo nguyên ngày càng nền nếp, trật tự hơn, còn VêNa trở thành một con chó Tây tàn bạo, lũ chó rách phương Đông dần dần ít việc làm hơn và trở thành vô dụng. Ngày nối ngày, VêNa từng bước trở thành ông chủ thứ hai trên thảo nguyên mênh mông và tươi đẹp này. Bất chợt, VêNa nghĩ rồi một ngày nào đó mình già đi, không còn đủ sức chăn bò trên thảo nguyên nữa, liệu lũ chó rách phương Đông ấy có để cho mình được yên ổn như thế này nữa không, hay chúng sẽ xúm vào cắn xé mình như hôm nay minh đang cắn xé lũ bò ngu ngốc kia không?
                                                                   Nguyễn Văn Lai