BỮA CƠM CHIỀU MUỘN
Đến bây giờ, tôi vẫn nhớ như in bữa
cơm chiều muộn ấy. Cũng như bao gia đình nông dân nghèo của mảnh đất miền Trung
những năm tháng khó khăn đó. Nhà tôi chạy ăn từng bữa, sắn khoai chẳng có mà ăn
nói chi đến cơm trắng cá kho. Mẹ tôi tần tảo xớm trưa, mưa nắng ngoài đồng
"bán mặt cho đất, bán lưng cho trời" mà vẫn không đủ ăn. Hạt lúa, củ
khoai quằn mình nuôi lớn 6 chị em chúng tôi trong những năm tháng đói nghèo đó.
Có nghĩa là gia cảnh nhà tôi bần hàn, túng thiếu, ít khi có bữa no. Nhưng có
một kỷ niệm mà tôi nhớ mãi không bao giờ quên những ngày khốn khó. Bữa cơm
chiều đến muộn, nói đúng hơn là hôm đó không có bữa cơm chiều, mà cả nhà tôi
chờ bữa cơm tối. Hôm đó đã hơn 8 giờ 30 tối mà mẹ tôi đi chợ Hoàng (Nga Sơn)
vẫn chưa về, ở nhà hết gạo, mấy bố con chúng tôi chả biết tìm đâu ra gạo để nấu
cơm chiều. Đi vay thì hàng xóm cũng cảnh nghèo như mình, chẳng có gạo mà vay
đành phải đợi mẹ về chợ mà thôi. 7 người trong gia đình tôi đợi mẹ từ lúc chập
chiều đến tối mịt vẫn chưa thấy mẹ về. Bố đưa tôi đi đón mẹ, chúng tôi vượt
quảng đường hơn 3 km đến đoạn đê vòng vẫn không thấy mẹ đâu. Hai bố con ngồi
xuống vệ cỏ bờ đê chờ mẹ, bụng đói lép kẹp, tôi nằm xuống triền đê ngửa mặt lên
trời hóng gió. Mùa hè những ngọn gió nồm nam rất mát thổi từ hướng biển vào làm
tôi khoan khoái, tạm quên đi cơn đói đến cồn cào. Lúc đó tôi chỉ ước gì đón
được mẹ về lục gánh lấy tạm củ khoa lang sống ăn cho đỡ đói lòng mà mãi chẳng
thấy mẹ đâu. Thế rồi tôi ngủ quên trên bờ đê lúc nào chẳng rõ. Tôi mơ thấy mình
lạc vào lạc vào vườn ổi nhà Bác tôi đầy những quả chín vàng. Tôi trèo cây hái
quả và ngấu nghiến ăn cho đỡ cơn đói. Cứ thế tôi trẩy hết quả này đến quả kia cho
vào mồm ăn liên tục. Tôi giơ tay ra phía đầu cành vít lấy một quả ổi to chín
mọng. Chợt cành ổi gãy đôi, tôi rơi từ trên cao xuống đất rợn hết cả người và ú
ớ la to. Cùng lúc đó, tôi giật mình tỉnh giấc đã thấy bàn tay âu yếm của mẹ đỡ
tôi ngồi dậy trên bờ đê. Mẹ tôi bảo "con nói gì trong mơ mà mẹ nghe líu
ríu". Bố tôi gánh hàng chợ giúp mẹ đi về, mẹ đỡ tôi đứng dậy về theo. Tôi
túm gấu áo mẹ lon ton chạy sau, mẹ giúi vào tay tôi miếng bánh đa nướng đã ỉu
xìu để tôi ăn tạm. Về đến nhà, các chị và em tôi đã ngủ, lúc này bố mẹ tôi mới
nhanh chóng nhóm lửa vo gạo nấu nhanh nồi cơm chiều. Khi cơm canh chín đã gần
10 giờ đêm, chị em tôi mới thức giấc ăn bữa cơm chiều muộn nhưng hạnh phúc quá
chừng. Mẹ tôi bưng bát cơm lên, dưới ánh đèn dầu tôi thấy mắt bà ngấn lệ, đôi
dòng nước mắt chảy ra, mẹ tôi kín đáo lau sạch không cho chúng tôi biết mẹ
khóc, rồi nhìn đàn con bé bỏng của mình ăn cơm, chắc lòng bà đau sắt. Tôi là
đứa trẻ tham ăn, đánh vèo một cái đã xơi hết toi hai bát cơm mẹ xới, mẹ xẻ thêm
cơm cho tôi từ bát của bà. Tôi bưng bát cơm định đưa lên miệng ăn tiếp, chợt
nhìn thấy mẹ buông đũa không ăn, quay mặt chùi nước mắt. Tôi hỏi nhỏ "sao
mẹ không ăn nữa". Mẹ nhìn tôi nhỏ nhẹ "mẹ no rồi, các con cứ ăn
đi". Tôi tưởng mẹ ăn no thật rồi, nên bình thản ăn nốt phần cơm mẹ vừa xẻ
cho, đâu có biết rằng mẹ tôi nhịn đói nhường cho tôi thêm khẩu phần của mẹ.
Tuổi thơ của tôi cứ vô tư lớn lên
trong tình yêu thương của cha mẹ và gia đình. Rồi tôi nhập ngũ, lên đường ra
biên giới chặn quân thù phía Bắc. Từ người lính trở thành sĩ quan, trải qua bao
gian khổ, vất vả. Đến nay, cuộc sống của tôi tương đối ổn định, nhớ lại bữa cơm
chiều muộn hôm đó, tôi mới ân hận làm sao. Tuổi trẻ của mình bồng bột quá, đâu
có biết rằng để thêm một miếng cơm cho mình là phải bớt phần của mẹ ! Giờ đây,
cầm nén hương thơm trước mộ phần của mẹ, tôi không thể nào quên bữa cơm chiều
muộn năm ấy mà nước mắt rưng rưng. Tôi lầm rầm khấn trước hương hồn mẹ hãy tha
thứ cho đứa con bé bỏng và ngây thơ của mẹ năm xưa..
Khi
có miếng ăn, cái mặc đủ đầy, sao lại quên đi những ngày đói kém. Cuộc sống hôm
nay, thêm một bát gạo, thêm một đồng tiền vào túi của mình là bớt đi khẩu phần
ăn của bao nhiêu người khác. Tôi vẫn thầm nhủ với chính lòng mình là hãy hiểu
rõ quy luật của tự nhiên "Mọi vật chất đều có tổng số không đổi, nếu bên
này nhiều thì bên kia sẽ ít".
ĐÒ LÈN-CÂY CẦU
MỘT THỜI HUYỀN THOẠI
Thời đó, có một
cây cầu cũng đã tứng hứng chịu hàng chục nghìn tấn bom đạn của quân thù, nhưng
nó vẫn tồn tại và nối mạch giao thông, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng
trong sự nghiệp giải phòng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Đó là cây cầu Đò Lèn
trên Quốc lộ 1A bắc trên sông Lèn (một nhánh của sông Mã). Cách cầu Hàm Rồng 17
km về phía Bắc, cầu Đò Lèn hiên ngang nối hai bờ của huyện Hà Trung và Hậu Lộc
(Thanh Hoá). Cũng giống như cầu Hàm Rồng, cầu Đò lèn là một trọng điểm đánh phá
của máy bay địch, mỗi ngày có hàng chục lượt máy bay đến quần đảo đánh phá, các
trận địa pháo phòng không của ta giăng lưới lửa chống lại quân thù. Trận đầu
mùng 3,4 tháng 4 năm 1965 ngay từ sáng sớm máy bay địch đã ập đến dội bom tới
tấp xuống cầu. Lúc ấy bảo vệ cầu là những khẩu pháo cao xạ 37 ly, 14,5 ly của
bộ đội chủ lực và một số trận địa súng máy phòng không 12,7 ly của dân quân địa
phương, số lượng rất ít nhưng đã chiến đấu rất có hiệu quả. Trận đánh rất ác
liệt xảy ra, máy bay địch, quần đảo, bổ nhào thả bom, bắn rốckét, pháo phòng
không của ta từng loạt trả lời. Có lúc hết đạn, pháo thủ bị thương, dân quân và
thanh niên địa phương của các xã Hà Phong, Hà Ngọc (huyện Hà Trung-Thanh Hoá)
nhanh chóng tiếp đạn cho bộ đội, thay thế các pháo thủ bị thương tiếp tục nổ
súng bắn trả máy bay địch. Trong 2 ngày chiến đấu dũng cảm đó, quân và dân Đò
Lèn đã bắn cháy 4 máy bay phản lực của địch, bảo vệ an toàn cho cây cầu lịch sử
.
Cầu Đò Lèn ở hạ
lưu sông Mã nơi có địa hình bằng phẳng, khó nguỵ trang nên dễ bị địch phát hiện
và tấn công, sau này máy bay địch dùng bom la de đánh xập cầu, nhưng ở đoạn
sông ấy những cây cầu dã chiến tiếp tục được mọc lên giữ vững mạnh máu giao
thông, chi viện sức người sức của cho miền Nam. Chỉ trong khoảng thời gian từ
năm 1965 đến 1972 ở đoạn sông Lèn nơi có cây cầu sắt lịch sử bị máy bay địch
đánh xập ấy đã có 5 cây cầu khác, với các chất liệu và hình thức nghi binh khác
nhauđược mọc lên thay thế. Cầu 2 là cầu phao đêm đêm bộ đội công binh bắc vội
để cho những chuyên xe quân sự sang sông. Cầu 3 là cây cầu gỗ bắc xuyên qua
đoạn sông giữa làng Tương Lạc của tôi, đêm đem những đầu máy hơi nước từ bờ Bắc
sông Lèn đẩy những toa hàng sang bên kia sông cho một đầu máy khác keo đi về
phía Nam .
Cầu 4 sát với cây cầu chính cũng là cây cầu gỗ có đường sắt chạy qua để cho các
đoàn tầu chở hàng qua sông. Cầu 5 là cây cầu treo ở phía thượng lưu nơi có thể
nguỵ trang tốt và bất ngờ để cho các đoàn xe vượt sông khi vắng bóng máy bay
địch. Cầu 6 là cây cầu đường sắt đi vòng lên phái thượng nguồn của dòng sông.
Sáu cây cầu bắc trên sông Lèn giống như 6 con rồng dũng mãnh vươn mình vượt qua
sông Mã oai hùng, đưa những đoàn xe, đoàn tầu vào Nam đánh giặc. Máy bay địch
thường xuyên trinh sát lùng sục, chúng phát hiện ra những cây cầu đó và tập
trung đánh phá, nếu một cây cầu đổ xuống, chỉ vài ngày sau lại có một cây cầu
khác mọc lên, giữ vững huyết mạnh giao thông nối dài ra tiền tuyến. Bảo vệ
những cây cầu là các trận địa pháo phòng không của bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân các làng xã lân cận, tạo thành lưới lửa nhiều tầng, nhiều
lớp đánh trả máy bay địch, quyết tâm bảo vệ cầu. Với câu khẩu hiệu "còn
người là còn trận địa, còn những cây cầu", đã có những cán bộ, chiến sỹ
quân đội và dân quân anh dũng hy sinh trong các trận chiến đấu bắn trả máy bay
địch, tên tuổi của họ có thể bị lãng quên cùng với năm tháng, nhưng họ đã góp
phần viết nên bản hùng ca rực rỡ về cây cầu Đò Lèn anh dũng. Cùng với cây câu
huyền thoại Hàm Rồng, trên huyết mạnh giao thông của con đường quốc lộ 1A năm
xưa có một cây cầu thứ 2 là Đò Lèn anh dũng, Hai cây cầu trên tạo thành những
điểm nhấn đầy ấn tượng trong lịch sử oai hùng của quân và dân Thanh Hoá trong
cuộc kháng chiến thần thánh giải phóng và bảo vệ Tổ Quốc.
Ngày nay, bên
cạnh cây cầu sắt lịch sử, lại có thêm một cây cầu đường bộ bắc song song với
cây cầu sát cũ. Ở đó Cầu Đò Lèn vẫn là huyết mạch giao thông của tuyến đường
Quốc lộ 1A thông suốt Bắc Nam .
CON GÁI SƠN TÂY
Hồi ấy, câu nói “Gái Hà Nội, Bộ đội Sơn Tây” cứ ám ảnh
mãi chúng tôi suốt chặng đường từ đơn vị chiến đấu tận biên giới phía Bắc về
trường sĩ quan đóng ở thị xã Sơn Tây (Hà Tây cũ) để học. Khi chưa đến xứ Đoài,
chúng tôi cứ tưởng ở Sơn Tây chỉ có lính và lính mà thôi. Vì ở đó là “Vùng đất
lính” kia mà, con gái chắc là ít lắm. Từ bé, chúng tôi lại được nghe bập bõm
những câu thơ về con gái xứ Đoài “Con gái Sơn Tây, yếm thủng tày dần; răng đen
hạt nhót, chân đi cù lèo”, rồi “Tóc rễ tre, chải lược bồ cào, sần sùi da cóc, hắc
lào tứ tung, trên đầu chấy rận như sung...”. Muốn tìm một cô người yêu hẳn là
phải xuống Hà Nội mới có, như vậy thì học viên sỹ quan chúng tôi làm gì có thời
gian để đi tìm bạn gái, rồi thì “tình phí” lấy đâu ra, phương tiện đi lại lúc
ấy khó khăn vô cùng. Thế thì có lẽ phải trở về quê nhờ bố mẹ tìm và cưới cho
một cô gái làng làm vợ mà thôi. Với những suy nghĩ mặc cảm và nỗi ám ảnh về con
gái Sơn Tây như vậy, nên giai đoạn là
học viên vì bận học tập, ít được tiếp xúc với bà con nhân dân địa phương trong đó
có các cô gái Sơn Tây chúng tôi chưa hề có cảm tình gì với họ, mà chỉ chăm chú
vào việc học hành, rèn luyện để trở thành người sỹ quan tương lai.
Thế mà! mọi suy nghĩ và tình cảm của chúng tôi bị đảo lộn khi đơn vị đi học tập dã ngoại xa
trường, đóng quân trong nhà dân. Lần đầu tiên chúng tôi được gặp “Cô gái Sơn
Tây”, đó là một cô gái ngang tuổi chúng tôi, hồi ấy khoảng mười chín, đôi mươi.
Cô tên là Dự con gái chủ nhà, đã từng học xong trung cấp y tế đang chờ xin việc
làm. Chúng tôi rất ngỡ ngàng khi thấy cô gái trẻ và có duyên này, tuy ít tuổi
nhưng hiểu biết xã hội khá sâu. Sau mỗi buổi đi huấn luyện về được trò chuyện
với cô, chúng tôi biết cô yêu nghề y và rất mến áo lính. Ước mơ của cô nếu
không xin được việc làm thì sẽ đăng ký đi nghĩa vụ quân sự để được phục vụ
trong quân đội, được mang “mầu xanh áo lính”. Gần cô gái có dịp ngắm em, chúng
tôi thấy tuy là con gái Sơn Tây nhưng em có làn da trắng, tóc dài đến thế, em
nói chuyện có duyên và lém lỉnh, reo vào lòng chúng tôi những rung cảm đầu đời.
Mỗi khi đi học ngoài thao trường về đến nhà trọ được gặp em tươi cười, rót cho
chúng tôi bát nước chè xanh là thấy nhẹ cả người, bao nhiêu mệt nhọc biến đi
đâu hết. Ngày nghỉ, em rủ chúng tôi ra ruộng rỡ khoai giúp gia đình, tối về
quây quần bên bếp lửa vừa ôn bài vừa bóc khoai nướng xì xụp ăn, rồi cười khúc
khích, thật là một kỷ niệm vui, em để lại nhiều ấn tượng với chúng tôi. Từ bữa
đó, cảm giác không đẹp về con gái Sơn Tây đã bay đi đâu mất, chỉ còn lại hình
ảnh tươi rói về em theo chúng tôi đi suốt những ngày tháng trên giảng đường của
trường sỹ quan.
Thời tiết của vùng “đất lính” thật là khắc nghiệt,
đúng là “nắng Sơn Tây, mây Ba Vì”, nhưng con người Sơn Tây thì thật là hiền hoà
và tốt bụng. Quân đôi chắp canh cho chúng tôi bay lên, cơm gạo Sơn Tây nuôi dưỡng
chúng tôi, tình cảm của nhân dân Sơn Tây nâng bước chúng tôi đi. Kỷ niệm về
vùng đất Sơn Tây theo suốt cuộc đời lính chúng tôi bắt đầu từ những năm tháng
học tập và rèn luyện ở trường sỹ quan và rồi sau đó gắn bó suốt cuộc đời.
Tốt nghiệp sỹ quan ra trường, chúng tôi được tổ chức
phân công ở lại trường công tác. Đất xứ Đoài không còn xa lạ nữa, con người và
những cô gái Sơn Tây giờ đây trở thành thân quen. Sơn Tây trở thành một phần
của Thủ đô Hà Nội với những khu du lịch có vẻ đẹp và huyền thoại nổi tiếng như
hồ Đồng Mô, Ao Vua, làng cổ Đường Lâm, đền Và, chùa Mía...Những cô gái Sơn Tây
không còn phải đi xe đạp nữa, họ đi xe máy tay ga đời mới, ngồi xe ô tô sang
trọng đắt tiền “ba chấm không”, đó là những xô gái năng động sáng tạo, chịu khó
học hành và thành đạt. Còn bao nhiêu cô gái Sơn Tây khác hiền thục và đảm đang
“giỏi việc nước, đảm việc nhà”, cấy lúa, trồng hoa, chăn tằm, dệt vải việc nào
cũng thành thạo. Những “cô gái Suối Hai” trở thành nổi tiếng, những nàng áo
xanh dưới chân núi Tản Viên chăn nuôi bò rất giỏi để ngày ngày cho những dòng
“sữa trắng Ba Vì”; những cô thôn nữ với vành nón trắng nhấp nhô trên đồng cho
những mùa thu hoạch bội thu, làm “Anh phi công bàng hoàng ngỡ mình bay trên gấm
vóc”. Sơn Tây đẹp như huyền thoại, con gái Sơn Tây chung tay xây dựng đất nước.
Công sức và trí tuệ của họ đã góp một phần biến vùng đất đá ong xưa, nay trở
thành làng du lịch sinh thái, khu công nghệ cao và những con đường nhựa, đường
bê tông rộng rãi nối xã nọ, làng kia cùng nhau phát triển kinh tế, “xoá đói
giảm ngheo”.
Với tôi, con gái Sơn Tây giờ đây đã là ruột thịt - cô
gái trẻ Sơn Tây năm xưa nay là “bà lão” thân sinh ra hai đứa con của mình. Cô
gái Sơn Tây ấy sẽ mãi mãi gắn bó với tôi, cùng chung niềm vui và nỗi buồn qua
năm tháng.
Hoá ra cái cảm giác ban đầu hay đánh lừa chúng ta đến
thế, con người giống như một quyển sách nếu chưa đọc thì chưa thể biết hết cái
hay của nó. Phải chăng đừng vội ngộ nhận bất kỳ điều gì khi chúng ta mới gặp?
XỨ ĐOÀI-MÍT
MẬT, ĐÁ ONG
Xứ Đoài mây trắng, nơi ấy có núi Tản
Viên với truyền thuyết Sơn Tinh chiến thắng Thuỷ Tinh, phản ánh tinh thần anh
dũng, lao động sáng tạo của con ngời chiến thắng thiên tai, lũ lụt bảo vệ mùa
màng. Sơn Tây, vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi sinh ra nhiều anh hùng dân tộc,
với Đường Lâm-một làng có hai vua (Ngô Quyền và Phùng Hưng). Về với Xứ Đoài
là về với danh lam thắng cảnh và những huyền tích lịch sử, có Hát Môn nơi ghi
dấu Hai Bà Trưng tuẫn tiết còn mãi tiếng thơm, có thành cổ Sơn Tây, có đền Và,
chùa Mía, chùa Tây Phương với 18 vị La Hán và một dải sông Đà, sông Tích làm
nên nhiều chiến công huyền thoại. Ngày nay, xứ Đoài mây trắng lại là vùng đất
đầy tiềm năng của kinh tế, du lịch đã và đang trở thành hiện thực như Đồng
Mô-Ngải Sơn, Ao Vua, Thác Đa, Suối Tiên…và nhiều sản phẩm nông nghiệp của một
vùng quê phía tây Hà Nội. Khó có thể quên đối với những ai đã đến Xứ Đoài khi được thấy hai sản phẩm quý báu đã trở
thành "đặc sản" và truyền thống, nét đẹp văn hoá đối với người dân
nơi đây-đó chính là mít mật và đá ong. Mới nghe tên hai sản phẩm này quả là quá
bình thường, nhưng kỳ thực lại rất đặc sắc và mang nhiều ý nghĩa. Người quê
cũng như người thành phố chắc là ai cũng đã một lần được ăn mít mật, mới
thấy hết vị ngọt của loại hoa trái này. Mít mật xứ Đoài lại có những đặc thù
riêng hiếm có. Vị ngọt của mít mật nơi đây được rễ cây chiết xuất từ những vỉa
đá ong trong lòng đất mẹ. Bổ quả mít mật chín cây, chỉ cần cầm cuống mít nhấc
lên, nõ của nó tụt ra, để lại một mầu vàng tươi của những múi mít vàng ươm,
bên trong óng ánh của những giọt mật ngọt thơm ngon. Người được thưởng thức
mít mật chỉ cần nhón tay nhặt chiếc tăm cắm vào múi mít nhắc lên, đưa vào
miệng, một vị ngọt đậm đà từ từ trôi vào cổ họng mới dễ chịu làm sao, ăn một
múi mít lại cứ muốn ăn thêm múi nữa, cứ thế hai ba người với một quả mít mật
nhanh chóng hết veo.
Đá
ong, nghe tên chỉ là một chất liệu khô khan, cứ tưởng rằng chẳng có tác dụng
gì, nhưng đá ong nơi đây lại là một "đặc sản" quý hiếm khó nơi nào
có được. Đá ong là một loại vật liệu người dân nơi đây dùng để xây nhà rất
phổ biến. Đi dọc theo quốc lộ 32, quốc lộ 21A hoặc vào những làng quê đâu đâu
cũng thấy những ngôi nhà xây đá ong rất đẹp. Loại vật liệu này rất dễ sản xuất,
miễn là có sức khoẻ và một ít kỹ thuật. Người dân xứ Đoài nhà nào cũng có một
dụng cụ đào đá mà người ta quen gọi là "chiếc thó". Chiếc thó cán
dài, lưỡi sắc. hai bên có cạnh để đào đá, từng hòn đá hình hộp chữ nhật được
đưa lên từ lòng đất để kiến tạo nên một ngôi nhà mới. Trước kia, những ngôi
nhà của dân hoàn toàn được xây bằng sản phẩm đá ong, hiện nay đá ong ít dần,
gạch đỏ nhiều lên, xây nhà cao tầng ít dùng tới đá ong nữa. Nhưng đá ong vẫn
là sản phẩm cần thiết cho nhân dân lao động, dù có gạch đỏ thì người dân ở đây
vẫn dùng đá ong để xây nền móng. Có đá ong, móng của ngôi nhà sẽ tăng thêm độ
chắc và bền vững. Bởi mỗi vỉa đá ong có sự kỳ lạ tuyệt vời, từng viên đá ong
khi chưa đào lên chỉ là một thứ đá lẫn với đất rất mềm, nhưng khi đã thành
từng viên vuông vắn, càng dải nắng dầm mưa, gạch đá ong càng tăng thêm độ
cứng, mưa to trôi đi lớp đất chỉ còn lại đá lỗ chỗ như tổ ong càng rắn chắc
thêm. Khi được xây bằng vữa, bằng hồ sẽ tạo thành sự bền vững dãi dãi dầu qua
năm tháng. Đất ở xứ Đoài, có đá ong tạo cho nguồn nước nơi đây trong mát,
những chiếc giếng khơi, giếng khoan có nguồn nước sạch, ngọt đến tuyệt vời,
hầu như nước không có lẫn thêm một tạp chất nào nữa, vì nó đã được lọc qua
đá ong tạo nên trong vắt. Đó là thứ nước ngọt của tự nhiên quý hiếm, bà con đi
làm đồng về nóng bức kéo một gầu nước từ giếng lên, ngửa cổ tu một hơi ừng ực.
giải toả cơn khát giữa mùa hè nóng nực mà bụng chẳng hề gì.
Mít mật, đá ong quả là những
"đặc sản" của xứ Đoài mến yêu, vỏ ngoài của nó rất gồ ghề nhăm nhở
nhưng bên trong thì thật ngọt ngào và tinh tuý như chính tấm lòng người dân
mảnh đất nơi này.
ĐỀN VÀ
Đền Và là nơi thờ Đức Thánh Tản Viên
sơn - Sơn Tinh.
Sơn
Tinh là vị thánh đứng đầu Tứ Bất tử của nước Nam (Sơn Tinh, Chử Đồng Tử, Thánh
Gióng, Liễu Hạnh). Sơn Tinh nổi tiếng với truyền thuyết cuộc chiến chống Thuỷ
Tinh trị thuỷ thời hồng hoang, biểu hiện của sự đoàn kết toàn dân chống lại sự
tàn phá của thiên nhiên, được người đời tôn vinh là Đức Thánh Tản. Truyền
thuyết lịch sử về Sơn Tinh đến ngày nay vẫn còn lưu truyền mãi mãi, thể hiện sự
tích anh hùng và tâm linh của con người đất Việt. Tương truyền thời giặc phương
Bắc đô hộ nước ta, viên quan (tiết độ sứ) cai trị là Mã Viện - một thầy phù
thuỷ cao tay dùng phép thuật yểm bùa phá các long mạch và chấn hết các huyệt
thiêng của nước Nam ,
hòng làm cho đất nước ta không phát triển được để dễ bề cai trị. Nhưng khi Mã
Viện yểm bùa chấn 2 huyệt là Hồ Tây và Tản Viên sơn (Núi Ba Vì) thì bị thất bại
vì ở đó Mã Viện gặp phải các vị thánh linh thiêng và cao siêu của nước Nam (ở
Tản Viên Sơn do Sơn Tinh chấn giữ) làm cho Mã Viện không thể chấn yểm được. Như
vậy, có thể thấy Đức Thánh Tản là vị anh hùng dân tộc, dẫu hoá thân thành Thánh
nhưng giặc không thể nào khuất phục được Ngài (cũng chính là không thể khuất
phục được lòng dân đất Việt). Ngài thật xứng đáng là vị thánh đứng đầu các vị
thánh trời Nam
(vị thánh tổ của bách thần- đệ nhất phúc thần).
Đền Và thờ đức Thánh Tản
Có rất nhiều
đền thờ Đức Thánh Tản Viên sơn, nhất là ở vùng xung quanh núi Ba Vì như Sơn
Tây, Phú Thọ, Vĩnh Phúc...Một trong những đền thờ linh thiêng đó là Đền Và ở
Sơn Tây. Đền Và toạ lạc trên một đồi lim nhỏ cạnh Quốc lộ 21 kéo dài từ thị xã
Sơn Tây đi Trung Hà thuộc xã Trung Hưng (Sơn Tây, Hà Nội).Về quy mô, Đền Và tuy
không to, không lớn, không rộng nhưng là một công trình kiến trúc văn hoá vật
thể đặc sắc vừa mang tính cổ truyền vừa mang tính hiện đại, bởi Đền Và thường
xuyên được trùng tu, tôn tạo.
Theo
truyền thuyết vào thời Hùng Vương thứ 18 có ba vị đức thánh, thần phò vua Hùng
dựng nước. Nguyên ba vị thánh, thần đó là 3 anh em con chú, con bác nhà họ
Nguyễn, người anh con ông bác là Nguyễn Tuấn (tên huý của Sơn Tinh) còn hai
người em sinh đôi con ông chú là Nguyễn Hiền và Nguyễn Sùng. Ba người anh hùng
đó sau khi giúp vua Hùng đánh tan giặc, liền xin với vua đi khắp các làng mạc
giúp dân khai điền, đắp đê, trị thuỷ; dạy dân cày ruộng cấy lúa nước, phá rẫy
trồng lúa nương, lấy ống cây nứa, cây bương, cây giang trong rừng cho gạo vào
nấu thành cơm lam. Việc giúp dân khai sơn, trị thuỷ, đắp đê chống lụt có rất
nhiều hiệu quả, hàng năm mùa màng tốt tươi, mang lại no ấm cho các bản làng.
Việc có ích đó dần dần trở thành ý thức tự giác trong nhân dân cả nước, như một
phép mầu để nhân dân hàng năm đắp thêm nhiều đê ngăn nước lũ, chiến thắng thuỷ
thần. Ba anh em đi đến đâu cũng được nhân dân tin yêu, quý mến và tôn vinh,
riêng Sơn Tinh được tôn vinh là ông vua trị thuỷ, người đời truyền gọi ba anh
em là “Một thánh, hai thần” Đức Thánh Tản Sơn Tinh (Nguyễn Tuấn), Cao Sơn thần
(Nguyễn Hiền), Quý minh thần (Nguyễn Sùng). Một lần Đức Thánh Tản Sơn Tinh phò
vua Hùng dẹp giặc Thục xong, Người cùng quân lính đi đến bên bờ sông Tích, nơi
có đất đai mầu mỡ, phong thuỷ hữu tình. Bỗng có một vầng mây hồng xà xuống che
trên đầu như một cái tán khổng lồ trời buông, Sơn Tinh cho đây là điềm lành và
đặt tên nơi đây là Vân Già. Ngài cho xây một Đông cung để mỗi lần đi qua có chỗ
trú chân (dân làng lấy tên ấy đăt tên cho làng mình là Vân Già gọi chệch là Vân
Gia). Tại nơi đây, người đời sau cho xây một đền thờ đặt tên là Đền Và (Đông
cung-Đông Chấn cung). Từ đó trở đi, Đền Và là nơi thờ Đức Thánh Tản để nhân dân
dâng hương cầu thánh, thần phù hộ, độ trì và tưởng nhớ đến vị những thánh, thần
bất tử của trời Nam.
Đến Đền Và bắt đầu từ tấm bia “hạ mã” đặt ở
lối vào, là nơi dừng ngựa, xuống xe, xuống kiệu. Bên ngoài là giếng nước nhỏ,
nước trong ngắn ngắt, ai đến thăm mà được múc nước rửa mặt thì sẽ thấy mình
thanh thoát. Tiếp theo là động ngũ hổ rồi đến Nghi môn - cổng lớn dẫn vào nội
đền, qua khoảng sân rộng là đến nhà tiền tế. Trong Đền Và thờ đức Quốc mẫu;
thời tam vị Đức Thượng đẳng là Đức Thánh Tản Sơn Tinh (Nguyễn Tuấn), Cao Sơn
thần (Nguyễn Hiền), Quý minh thần (Nguyễn Sùng). Ở đền Trung có 4 pho tượng tứ
trấn mình khoác áo bào đỏ, tay cầm vũ khí, trấn giữ 4 phương Đông - Tây - Nam -
Bắc quanh núi Ba Vì. Ngoài hiên là hai pho tượng quan văn và quan võ có nhiệm
vụ lắng nghe lời thỉnh cầu của dân gian rồi trình lên Đức Thánh Tản. Trong Đền
Và còn có 18 đạo sắc phong, 47 đôi câu đối, 18 bức hoành phi, 1 quyển văn tế, 2
tấm bia đá, 3 quả chuông đồng.
Lễ hội Đền Và
Đền Và là nơi
Lễ hội của nhân dân địa phương, nơi thờ cúng Đức Thánh Tản, thánh mẫu và các
huynh đệ của Ngài; là địa điểm du lịch đón khách thập phương đến thưởng ngoạn
và dâng hương lễ Thánh, tỏ lòng biết ơn người anh hùng khai sơn, trị thuỷ từ
thủa hồng hoang. Lễ hội Đền Và là nét đẹp của sinh hoạt văn hoá cộng đồng, văn
hoá tín ngưỡng, văn hoá tâm linh, văn hoá thờ thần thánh, thờ các vĩ nhân và
anh hùng dân tộc. Lễ hội Đền Và có sức lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân
địa phương và du khách gần xa tham gia. Lẽ hội hàm chứa ước vọng thiêt tha của
bà con nhân dân, của cộng đồng về khát vọng chiến thắng thiên tai, vươn lên làm
chủ thiên nhiên. Những hoạt động tâm linh trong lễ hội gắn kết giữa linh thiêng
và đời thường; giữa thánh thiện và trần tục, giữ thánh thần và anh hùng dân
tộc. Lễ hội còn là truyền thống văn hoá, là nét đẹp của những tấm lòng hướng
thiện, sự biết ơn, sự tôn vinh và hướng về cội nguồn.
Theo tục truyền
vào mùa xuân, trung tuần tháng giêng âm lịch lễ hội được tiến hành, nhân dân
trong vùng nô nức kéo nhau về dâng hương hoa cầu sự may mắn cho một năm mới. Có
8 làng tham gia rước kiệu và dự tế ở Đền Và, bao gồm làng Vân Gia, Cầu Trì, Ái
Mỗ, Mai Trai, Nghĩa Phú, Đàm Trai (xã Trung Hưng, Sơn Tây); Phú Nhi (phường Phú
Thịnh, Sơn Tây), Phù Sa (xã Viên Sơn, Sơn Tây); Di Bình (Vĩnh Thịnh, Vĩnh Lạc,
Vĩnh Phúc). Kiệu rước bài vị tam vị Đức Thánh gồm 32 trai tráng khoẻ mạnh thay
nhau khênh (16 người khênh, 16 người thay thế), ngoài ra còn có 4 người nang
quạt che đai và 2 người cầm tán. Khi rước, kiệu chính đi trước đến kiệu văn (để
văn tế và sự tích vị thần), tiếp đến kiệu long mũ của tam vị, sau đó đến kiệu
hương hoa, oản quả. Đám rước đi vào cổng thành cổ Sơn Tây quay một vòng rồi mới
ra bờ sông Hồng, khi nào thấy lá cờ tứ linh gặp gió thổi phất đuôi cờ về phía Nam
thì trở lại Đền Và. Ngày Đền Và lễ hội chính là ngày 15 tháng riêng nhân dân
các thôn và khách thập phương đến dâng hương hoa, oản quả viếng Đức Thánh để
cầu phúc, lộc, thọ. Bên cạnh lễ hội Đền Và, nhân dân quanh vùng còn tổ chức các
trò chơi dân gian như: chọi gà, đấu vật, đánh cờ người, bịt mắt đập niêu, thi
nấu cơm, mặc quần áo, hát các bài hát dân ca mang đậm bản sắc văn hoá Xứ Đoài
huyền thoại.
Ngày nay, Xứ
Đoài đang trên đường đổi mới, kinh tế phát triển, nhân dân ngày càng no ấm, Lễ
hội Đền Và lại càng được chú trọng, thể hiện sự tôn vinh và hướng về nguồn cội,
đây là nét đẹp văn hoá tâm linh của người dân Sơn Tây nói riêng và cả nước nói
chung. Hàng năm, vào ngày đầu xuân Đền Và mở hội, hàng vạn du khách gần xa chảy
về vùng đất thiêng Xứ Đoài dự lễ. Từng dòng ô tô, xe máy đổ về đậu kín bãi đỗ
xe, du khách xuống viếng Đền thắp hương tế tam vị Đức Thánh. Người ta bầy các
vật phẩm của ngon vật lạ: nào chè, nào thuốc, nào bia lon, rượu ngoại, nào tiền
vàng, hoa quả vào các mâm nhôm, mâm đồng dâng lên Đức Thánh, có người lầm nhầm
tự khấn vái, nhiều người nhờ các cụ Thủ từ ở đền cúng hộ, nhưng dù hình thức
cúng vái nào thì ai cũng thành tâm trước Thánh, Mong ngài phù hộ, độ trì cho
tai qua, nạn khỏi, ăn nên, làm ra, sức khoẻ dồi dào, phát triển mọi mặt. Đi lễ
hội Đền Và là món ăn tinh thần, là động lực để mỗi người tự tin hơn, vững bước
trên con đường đổi mới làm giầu cho chính mình, cho quê hương đất nước, góp
phần giữ gìn nét đẹp văn hoá truyền thống và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiến
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
LÊN THĂM CHÙA MÍA XỨ ĐOÀI
Nói đến xứ Đoài là nói đến vùng đất
địa linh nhân kiệt, vùng đất của lịch sử văn hoá với những danh lam thắng cảnh
tuyệt mỹ. Một trong những địa danh nổi tiếng của xứ Đoài là Đường Lâm - ngôi
làng cổ sinh ra hai vua (Phùng Hưng và Ngô Quyền), ở đó có rất nhiều công trình
văn hoá như đền thờ Phùng Hưng, lăng và đền thờ Ngô Quyền, đình Mông Phụ, đình
Đoài Giáp, nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh... nhưng nổi tiếng vẫn là chùa Mía -
một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo tuyệt đẹp của quê hương xứ Đoài
(Sơn Tây, Hà Nội).
Từ Hà Nội theo Quốc lộ 32 hoặc Quốc lộ
21 đi qua thị xã Sơn Tây khoảng 4 km sẽ đến làng cổ Đường Lâm. Sau khi rẽ trái
qua chiếc cổng làng là đến đền thờ Bố cái Đại vương (Phùng Hưng), đối diện là
chùa Mía. Chùa Mía toạ lạc trên đồi đất cao thuộc thôn Đông Sàng (xã Đường
Lâm). Chùa có tên chữ là Sùng Nghiêm tự, chùa được xây dựng từ thời xa xưa tại
vùng đất cổ xứa Đoài - nơi giao thoa của văn hoá thờ thần thánh, tổ tiên ông bà
cha mẹ (thờ Sơn Tinh, Phùng Hưng, Ngô Quyền; thờ thành hoàng) với thờ phật.
Chùa Mía được xây dựng lại từ đầu thế kỷ XVII (1632) thời kỳ vua Lê chúa Trịnh,
do Nguyên phi trong phủ Trịnh Tráng có tên là Nguyễn Thị Ngọc Dong (Ngọc
Diêu-Ngọc Dao) quê gốc ở đất Mía đứng ra hưng công xây dựng lại. Đến nay, chùa
Mía vẫn thường xuyên được tu bổ tôn tạo nên chùa vẫn giữ dược dáng xưa, là nơi
đáp ứng nhu cầu văn hoá tâm linh, tín ngưỡng đạo phật của đông đảo phật tử gần
xa.
TƯỢNG Ở CHÙA...
Là ngôi chùa cổ, chùa Mía có 287 tượng
phật lớn nhỏ, trong đó có 6 tượng đồng, 107 tượng mộc còn lại là tượng thổ. Mỗi
pho tượng dù được đúc bằng đồng, tạc bằng gỗ hay sinh ra từ đất nhưng tất cả
đều có vẻ đẹp linh thiêng, huyền ảo riêng, đầy chất nghệ thuật của nghề điêu
khắc Việt Nam .
Tượng phật trong chùa Mía mỗi pho đều có tư thế, dáng vẻ, vị trí khác nhau
nhưng đều nhìn người đời với ánh mắt từ
bi hỉ xả, bao dung độ lượng (trừ tượng ông Ác). Trong chùa có đến 6 tượng Thích
Ca Mâu Ni, điển hình là tượng Ngài Thích Ca Mâu Ni sơ sinh choàng áo đỏ đứng
trong vòng cung cửa động Cửu Long hai bên là tượng Nam Tào, Bắc Đẩu, biểu hiện
Ngài là người trời. Mới lọt lòng sinh ra Thái tử Tất Đạt Đa hay còn gọi là But
Đa (dân gian vẫn thường gọi là Bụt) con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da của
nước Ca Tỳ La Vệ ở phia Bắc Ấn Độ (có tài liệu cho là Nê Pan) đã nói
"Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn" (nghĩa là trên trời, dưới
trần chỉ có ta là một) hẳn ngài muốn nói vai trò của mình là "cứu khổ, cứu
nạn" cứu chúng sinh thoát khỏi bể khổ trầm luân. Tiếp sau vẫn là tượng
Thích ca sơ sinh kề bên là hai tượng đồng Ngọc Nữ, cạnh đó là tượng Ngọc Hoàng,
Lão Tử; sát hai bên bệ thờ là hai hàng tượng thập nhị Minh Vương (12 vị vua
trời cai quản 12 năm ở cõi dương gian. Sau nữa vẫn là bộ tượng Thích Ca Mâu Ni
sơ sinh bằng đồng khoác áo đỏ. Phía sau là tượng Adi Đà Phật pháp quang bằng
đồng, dáng cao, khuôn mặt từ bi, độ lượng nhìn chúng sinh. Trong cùa Mía có 2
pho tượng tương đối cao to là tượng của Đại pháp Tiên Cương và tượng Đế Thích,
đây là hai đệ tử tin cậy nhất của Phật. Bên trong nữa là tượng đồng Adi Đà rất
đẹp, ngài toạ trên toà sen, dáng khổ hạnh, kiên trì, tóc xoăn hình xoắn ốc, hai
bên và thấp hơn ngài là tượng đức Địa Tạng và đức Mục Liên.
Có một pho tượng rất đáng chú ý và trở
thành quen thuộc đối với phật tử là tượng ông Di Lặc (Bá Đại Hoà thượng), dáng
ông ngồi đường bệ, thư thái, miệng hơi cười như thấu nỗi trần gian; đôi tai dài
chảy xuống như nghe thấu mọi điều tốt sấu, ngang trái đời thường. Bụng ngài rất
bự, chắc ngài đã nuốt nhiều lời của thế thái nhân tình để cho bụng ngài ngày
một tròn hơn. Phật tử thờ ngài vì biết ngài luôn thấu nỗi trường đời, đại từ
đại bi, "cứu một người phúc đẳng hà sa".
Hai pho tượng "hộ pháp" cao
to nhất chùa là tượng của ông Thiện và ông Ác. Ông Thiện là Thái tử Thiện Hữu
với ánh mắt hiền từ, trừu mến, với cái nhìn độ lượng bao dung ấm áp của đức
phật, thấu hiểu nổi đau khổ của nhân gian; sẵn sàng tha thứ cho những lỗi lầm
của người đời mắc phải một khi biết ăn năn hối lỗi, nhận rõ những sai lầm, biết
đứng dậy sửa sai để làm việc tốt. Ông Ác là Thái tử Ác Hữu, mắt xếch, lông mày
to dậm, oai phong dữ dằn, ông có ánh mắt và cái nhìn sắc như dao cau, biểu hiện
của sự giận dữ, muốn trừng trị những kẻ có dã tâm, làm điều ác độc đối với con
người và tự nhiên. Đến chùa, ai có khuyết điểm cũng đều tự giật mình khi đứng
trước ông.
Chìa Mía có bộ tượng Bát Bộ Kim Cương
8 pho rất đẹp, biểu tượng của những ông võ tướng với nét uy nghi oai phong lẫm
liệt. Tám vị tướng võ này bảo vệ cho tám hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam,
Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc của dương gian luôn được bình an vô sự. Tiếp theo
hai bên hành lang của chùa là bộ tượng Thập bát vị La Hán (18 vị La Hán) mỗi
bên 9 vị. Mỗi tượng La Hán có hình dáng khác nhau, tư thế khác nhau biểu hiện
của hành động khác nhau, cách ngồi khác nhau, trạng thái nét mặt khác nhau, ánh
mắt nhìn khác nhau... thể hiện cho mỗi thân phận con người nơi trần thế gặp
nhiều hoàn cảnh khó khăn, khổ ải, đớn đau khi bị lưu lạc, đoạ đầy, oan nghiệt.
Phía nhà sau của chùa là
những tượng ngự trong các động, các cung khác nhau với nhiều tượng của các nhân
vật nổi tiếng theo phật hoặc là những vị thánh trong dân gian và lịch sử dân
tộc như tượng A Nan (Đức thánh Hiền),
Đức ông Cô Độc, Quan âm thị Kính, bà chúa Liễu Hạnh, động Tuyết Sơn... Đặc biệt
ở gian trước của chùa còn có nơi thờ di ảnh những anh hùng liệt sĩ, những người
có công với đất nước trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc và trong
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, biểu hiện của đạo với đời luôn gắn liền với
nhau.
...PHẬT Ở TRONG TÂM
Dân gian thường nói thờ phật ở chùa
không bằng thờ phật trong tâm. Chẳng cứ phải đến chùa mới cầu được tài được
lộc. Mà hãy tin ở chính lòng mình, nếu làm nhiều việc thiện, giúp được nhiều
người, biết kính trọng tổ tiên, ông bà, cha mẹ, yêu quý quê hương đất nước thì
sẽ thấy lòng mình thư thái, thanh thản, bớt đi những nghen tuông, tham lam, tà
dâm, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Dẫu có đi chùa thắp hương trước tượng phật
hay "tu tại gia" thì bằng chính lòng mình hãy đọc "Nam mô phật,
tây phương cực lạc thế giới đại từ đại bi - adi đà phật" và tự hỏi rằng
trong cuộc sống mình đã làm điều gì tốt chưa chắc sẽ được đức phật phù hộ độ
trì, có sức khoẻ tốt, "ăn nên làm ra". Ai gây ngang trái, lừa thầy
phản bạn, làm nhiều điều không hay dẫu có đến chùa thờ phật cũng khó lòng thanh
thản và chẳng bao giờ được bình yên. Như vậy là phật luôn trong tâm và đi cùng
với người trên con đường đến nơi cực lạc.
Chùa Mía một công trình văn hoá nghệ
thuật, có giá trị tâm linh, phản ánh góc cạnh cuộc sống đời thường, nơi hoạt
động thờ cúng của giới tăng ni phật tử và quần chúng nhân dân. Đến với chùa Mía
để thấy lòng mình thảnh thơi, gột đi những bụi trần, làm thêm nhiều điều tốt.
Là con người bất kỳ già trẻ, gái trai đã đến với chùa, đứng hoặc quỳ lậy trước
tượng phật chính là bày tỏ tấm lòng hướng thiện, muốn tìm về cái tốt, cái bản
ngã của mỗi người. Đó là nét đẹp của văn hoá, tôn giáo phương Đông, văn hoá
Việt Nam
mà xứ Đoàn là nơi gìn giữ, hội tụ và toả sáng.
SƠN TÂY – MẢNH
ĐẤT XỨ ĐOÀI
Sơn Tây, mảnh đất xứ Đoài với nhiều huyền
thoại của cả lịch sử và hiện tại lại là nơi đùm bọc, gúp đỡ, che trở bộ đội
Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn năm xưa nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1 - Trường
Đại học Trần Quốc Tuấn. Trong 70 năm xây dựng, chiến đấu, đào tạo và trưởng
thành thì có đến hơn 60 năm Trường Đại học Trần Quốc Tuấn đóng quân trên đất
Sơn Tây giàu truyền thống cách mạng. Ngay từ khi mới thành lập, Sơn Tây đã được
Nhà trường chọn làm nơi đóng quân để huấn luyện những khoá cán bộ "Võ bị
Trần Quốc Tuấn" đầu tiên, góp phần đào tạo ra đội ngũ cán bộ quân sự ưu tú
cho Đảng và Quân đội, để bảo vệ chính quyền nhân dân còn non trẻ lúc bấy giờ.
Nhân dân Sơn Tây luôn yêu quý, đùm bọc, giúp đỡ bộ đội Lục quân rất nhiều cả về
vật chất lẫn tinh thần. Chính ở khu vực bến xe ô tô Sơn Tây ngày nay là nơi
Khoá 1 Võ bị Trần Quốc Tuấn được khai mạc, Nhà trường đã cùng với nhân dân Sơn
Tây rất vui mừng, phấn khởi được đón Bác Hồ về thăm và trao lá cờ truyền thống "Trung với nước,
Hiếu với dân" cho Nhà trường tại vùng đất thiêng này. Ngày nay,
"Trung
với nước, Hiếu với dân" đã trở thành truyền thống và lời thề danh
dự của Quân đội nhân dân việt Nam
đối với Tổ quốc.
Kháng
chiến bùng nổ, bộ đội của Trường Đại học Trần Quốc Tuấn tạm biệt quê hương Sơn
Tây trở lại chiến khu Việt Bắc và sang nước bạn đào tạo. Đồng bào Sơn Tây chia
tay, mong có ngày bộ đội Lục quân trở lại. Hoà bình lập lại, bộ đội Lục quân
trở về Sơn Tây, trên mảnh đất Công trường 50 (Nay là xã Cổ Đông, thị xã Sơn
Tây, Hà Nội). Đồng bào Sơn Tây lại cùng
với bộ đội Lục quân san sẻ những gian khổ trong lao động, huấn luyện và xây
dựng Nhà trường. Có những lúc nhạt muối, đói cơm nhưng tình nghĩa quân dân cá
nước thì không bao giờ phai nhạt. Cũng có khi nhân dân gặp hiểm nghèo, lũ lụt
kéo về, phản động quấy rối, máy bay quân thù bắn phá..., bộ đội Lục quân lại
giúp dân trừ gian, cứu đói, hộ đê, chống lũ lụt, giúp đồng bào sơ tán khỏi bom
đạn của giặc Mỹ... ơn nghĩa đó đồng bào và bộ đội đều ghi.
Đất nước mở cửa, nền kinh tế của cả
nước nói chung và của Sơn Tây nói riêng có bước phát triển vượt bậc. Bộ đội Lục
quân lại góp phần cùng với Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân Sơn Tây
chung tay xây dựng quê hương giầu đẹp, phát triển kinh tế vững mạnh, xây dựng địa
bàn đóng quân an toàn, an ninh, trật tự xã hội. Công cuộc xoá đói giảm nghèo
được các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương chăm lo, thúc đẩy. Bộ đội Lục
quân lại cùng với nhân dân đóng góp giúp đỡ những gia đình chính sách, những
người có công với cách mạng, những người có hoàn cảnh khó khăn. Bộ đội tặng
quà, tặng sổ tiết kiệm, xây nhà tình nghĩa, đóng góp quỹ từ thiện, quỹ bảo trợ
trẻ em, khám chữa bệnh miễn phí cho nhân dân trên địa bàn đóng quân, xay dựng
khu dân cư an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội... Nhân dân địa phương vẫn
yêu quý bộ đội Lục quân như xưa, đồng bào tạo điều kiện mọi mặt cho bộ đội Lục
quân học tập, huấn luyện. Những lúc khó khăn, gian khổ, bộ đội Lục quân đã dựa
vào nhân dân, phối hợp với cấp uỷ Đảng, chính quyền và đoàn thể các địa phương
kịp thời tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước cho nhân dân. Bằng những việc làm thiết thực, hiệu quả bộ đội Lục quân
đã xây dựng tốt mối đoàn kết quân dân, xây dựng được lòng tin yêu của nhân dân.
Bộ
đội Lục quân còn tích cực tổ chức giao lưu kết nghĩa với các địa phương khu vục
đóng quân, tạo nên tình cảm gắn bó keo sơn. Các chi đoàn, liên chi đoàn và đoàn
cơ sở trong Nhà trường và tổ chức đoàn ở các địa phương thường xuyên tổ chức
hoạt động giao lưu văn hoá văn nghệ, thi đấu thể thao, lao động giúp đỡ các gia
đình chính sách...Vào dịp hè tổ chức cho các cháu thiếu nhi ở những thôn xung
quanh Nhà trường hoạt động hè sôi nổi, bổ ích; đội văn nghệ xung kích và đội
điện ảnh lưu động của Nhà trường thường xuyên đi về các địa phương, vùng sâu,
vùng xa thuộc địa bàn hoạt động của Nhà trường biểu diễn văn nghệ, chiếu phim
màn ảnh rộng phục vụ bà con nhân dân... Những việc làm trên, được Đảng, chính
quyền và nhân dân địa phương ghi nhận.
CÓ MỘT TƯỢNG ĐÀI TRÊN
ĐẤT SƠN TÂY
Tượng
đài Quốc công tiết chế Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn được xâu dựng trên
mảnh đất Sơn Tây đầy huyền thoại và cách mạng. Đây là một công trình nằm trong
quần thể tượng đài các danh nhân văn hoá, quân sự Việt Nam-là một công trình kiến
trúc văn hoá có giá trị thẩm mỹ và tư tưởng cao. Tượng đài được Trường Đại học
Trần Quốc Tuấn xây dựng trên chính khuôn viên của Nhà trường và khánh thành vào
năm 2005.
Lịch sử dân tộc đã ghi nhận, Quốc công
tiết chế Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn-là danh nhân quân sự kiệt xuất-
Người đã vì nước, vì dân, gạt bỏ thù riêng, đoàn kết quân dân một lòng, giúp
Vua Trần ba lần đại thắng quân Nguyên-Mông, giữ vững bờ cõi, sơn hà xã tắc, xây
dựng vương triều Trần thành một trong những vương triều phong kiến hưng thịnh
nhất của lịch sử Việt Nam.
Trần
Quốc Tuấn là người văn võ song toàn, khi đất nước đứng trước hoạ xâm lăng dưới
vó ngựa của giặc Nguyên Mông-đội quân hung hăn nhất đã từng chinh phạt khắp
châu Á, châu Âu mà không thế lực nào ngăn cản nổi. Ông đã giúp vua Trần mở Hội
nghị Bình Than lấy ý kiến dân chủ, đoàn kết của tướng sỹ một lòng vì nước, mở Hội
nghị Diên Hồng xin ý kiến các bô Lão về đoàn kết toàn dân đánh giặc xây dựng
nên ý chí “Sát Thát”. Người đã viết nên những áng văn bất hủ “Hịch tướng sỹ”
kêu gọi ba quân cùng đứng lên chống giặc ngoại xâm. Người đã xây dựng nên một ý
chí quyết đánh quyết thắng, củng cố niềm tin dám đánh, dám thắng vào lòng vua
tôi Nhà Trần với câu nói bất hủ “Nếu Bệ Hạ muốn hàng thì hãy chém đầu thần
trước đã”. Người là tác giả của sách lược, chiến lược phòng thủ đất nước chống
giặc ngoại xâm mà nổi tiếng là bộ “Binh thư yếu lược-Vạn kiếp tông bí truyền
thư ” với kế sách giữ nước còn lưu mãi đến đời sau “Khoan thư sức dân, làm kế sâu rễ bền gốc là
thượng sách giữ nước”.Người đã được Vua Trần Nhân Tôn và Thượng hoàng
Trần Thánh Tôn giao cho trọng trách nặng nề Quốc công Tiết chế thống lĩnh quân
đội, chiến đấu chống giạc phương Bắc xâm lược, bảo vệ giang sơn gấm vóc.
Đóng quân trên địa bàn Sơn Tây, Trường Sỹ quan Lục quân 1 được mang tên
Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (Trường Đại học Trần Quốc Tuấn ngày nay), tên này
do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cho Nhà trường với mong muốn đây là nơi đào
tạo những nhà chỉ huy Quân đội đầy tài năng, thao lược, quả cảm và nhân nghĩa,
Bác đã nói: “Trường
của các cháu lấy tên là Trần Quốc Tuấn, cái tên đó chỉ rõ nhiệm vụ nặng nề và
tương lai vẻ vang của các cháu, các cháu phải ra sức thi đua làm tròn nhiệm vụ
để xứng đáng với tên Trường vẻ vang của các cháu, để xứng đáng với lòng tin cậy
mà Chính phủ và đồng bào đặt nơi các cháu...”. Được mang tên Người Anh hùng dân tộc-một danh nhân lịch sử là một vinh
dự to lớn luôn nhắc nhở mọi cán bộ, giảng viên, học viên hãy noi gương ý
chí của người xưa hết lòng xả thân vì đất nước, ra sức học tập, rèn luyện để xáng đáng với truyền thống đánh giặc giữ
nước của tổ tiên, là người cán bộ quân sự thì phải có ý chí quyết đánh,
quyết thắng từ đó mà xây dựng quyết tâm cao tích cực trong giảng dạy, học tập,
quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giáo dục-đào tạo, xây dựng Nhà trường
vững mạnh toàn diện.
Trường Đại học Trần Quốc Tuấn đã xây dựng tượng đài Quốc công Tiết chế
Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn giữa giữa lòng mảnh đất Sơn Tây. Bắt đầu từ
năm 2000 Trường Đại học Trần Quốc Tuấn đã
tổ chức hội thảo, xin ý kiến các cơ quan chức năng và các nhà chuyên môn trong
đó có ý kiến tham gia của Giáo sư sử học Lê Văn Lan, hoạ sỹ Trần Khánh
Chương...để tuyển chọn mẫu tượng đài. Cũng trong năm 2000, đồng chí Phan Văn
Khải-nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ đã đến thăm Trường
và tặng Nhà trường bức tượng Quốc công Tiết chế Hưng đạo Đại vương Trần Quốc
Tuấn bằng thạnh cao, đây là cơ sở rất quan trọng để Hội đồng tuyển chọn mẫu
tượng đài của Nhà trường làm căn cứ. Sau nhiều lần hội thảo, Nhà trường đã quyết
định chọn mẫu tượng đài Quốc công Tiết chế Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn cơ
bản giống như bức tượng bằng thạch cao mà nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải đã
tặng. Đây là mẫu tượng đài rất phù hợp với không gian bố trí trong khuôn viên
của Nhà trường, tượng đài vừa có ý nghĩa thẩm mỹ kiến trúc vừa có ý nghĩa văn
hoá, lịch sử và theo đúng quy chế quản lý tượng đài của Bộ Văn hoá,Thể tao và
Du lịch. Tượng đài được thi công đúng tiến độ và khánh thành vào dịp kỷ niệm
lần thứ 60 năm Ngày truyền thống Nhà trường 15/4/2005. Đây là một công trình
nằm trong quần thể tượng đài các danh nhân văn hoá, quân sự Việt Nam-là một
công trình kiến trúc văn hoá có giá trị thẩm mỹ và tư tưởng cao, là tài sản rất
có giá trị không những của Nhà trường mà còn là của quân đội và đất nước. Tượng
đài được đặt đúng vị trí hợp lý trong khu làm việc của Nhà trường - giữa lòng
mảnh đất Sơn Tây, với quy mô tổng diện tích 2826 mét vuông bao gồm cấu trúc mặt
nước với cây xanh, hài hoà với cảnh quan xung quanh, cùng mảng phù điêu, khối
tượng đài Quốc Công tiết chế Hưng đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cao lớn uy
nghiêm, mắt sáng nhìn xa, một tay cầm đốc kiếm, một tay cầm cuốn binh thư, thể
hiện rõ một vị "Nhân tướng". Công trình tượng đài là một điểm nhấn, một tâm
điểm quan trọng trong bố cục quy hoạch tổng thể của Nhà trường và một phần văn
hóa Sơn Tây.
Tượng đài Trần
Quốc Tuấn không chỉ phản ánh lịch sử, văn hóa, chính trị của dân tộc mà còn tô
điểm làm đẹp cảnh quan của một Nhà trường đào tạo sỹ quan mang tên Người. Những
giá trị đích thực của công trình tượng đài góp phần nâng cao đời sống văn hoá
tinh thần cho cán bộ, học viên, công nhân viên, chiến sỹ Nhà trường và địa
phương. Khắc ghi những mốc son chói lọi, vẻ vang của Nhà trường, nhắc lại kỷ
niệm sâu sắc thiết tha đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đây cũng là một
hình tượng giáo dục đầy ý nghĩa cả về lịch sử, hiện tại và tương lai cho các
thế hệ học viên sĩ quan và nhân dân địa phương.
Mỗi
khi đến viếng và thắp hương trước tượng đài Quốc công Tiết chế Hưng đạo Đại
vương Trần Quốc Tuấn chính là sự tôn vinh đối với Người anh hùng dân tộc-danh
nhân quân sự Thế giới. Mỗi người luôn bày tỏ tình cảm và thái độ trân trọng,
tôn vinh người anh hùng dân tộc, vị tướng tài, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, đối
với các thế hệ sĩ quan Lục quân cũng như đối với nhân dân địa phương trên địa
bàn đóng quân trong quá trình hoạt động giao lưu. Đồng thời, chú trọng bảo
quản, giữ gìn, tu bổ, tôn tạo tượng đài và các công trình văn hoá của Nhà
trường đã được các thế hệ đi trước xây dựng nên. Đặc biệt luôn quan tâm đến các
tài sản văn hoá có giá trị, kể cả văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể, làm
cơ sở để giáo dục truyền thống, động viên bộ đội trong học tập, công tác và rèn
luyện, kịp thời khai thác, sử dụng các công trình văn hoá vào học tập, sinh
hoạt có hiệu quả. Từ đó nêu cao tinh thần trách nhiệm và lòng tự hào của mỗi
cán bộ, giảng viên, học viên, công nhân viên, chiến sỹ của Nhà trường khi được
mang tên người anh hùng dân tộc "Võ bị Trần Quốc Tuấn" mà Bác Hồ tin
tưởng đặt cho, khẳng định vai trò quan trọng của Nhà trường trong nhiệm vụ đào
tạo cán bộ cho quân đội, quan hệ đoàn kết quân dân gắn bó. Từ đó không ngừng
nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo, phấn đấu hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm
vụ được giao, giữ vững truyền thống Nhà trường anh hùng.
HẠNH PHÚC ĐẾN MUỘN
Ngày ấy, đơn vị học viên sĩ quan chúng
tôi đi học tập dã ngoại đóng quân trong nhà dân tại một thôn nhỏ thuộc huyện
Lương Sơn, Hòa Bình. Xóm nhỏ ấy ẩn mình sau rặng tre xanh tốt dưới chân một
triền đồi hình vòng cung giống như một con cò đang lặn lội kiếm ăn. Đồi cao,
cây tốt, tre xanh thật là một làng quê yên ả, ấm cúng, đúng là “đất lành chim
đậu” chiều chiều từng đàn cò trắng chấp chới bay về đây trú ngụ trên những ngọn
tre, tiếng kêu ồn ả, làm náo động cả dáng chiều thôn xóm. Mỗi buổi sáng tinh
mơ, khi mặt trời chưa thức giấc đàn cò đã thức dậy, nhộn nhạo rồi bay đi kiếm
ăn, từng vệt trắng vút lên không trung tản về các cánh đồng đâu đó kiếm mồi.
Rồi mỗi buổi chiều cò lại bay về thôn trú ngụ làm nên khoảng lặng xôn xao và
thanh bình của một vùng đồi núi thôn quê. Chẳng biết có phải nhiều cò về xóm
làm tổ hay không hoặc do dáng đất của xóm có hình giống như một con cò đang lặn
lội kiếm ăn mà tên xóm được đặt là “Xóm Cò” hoặc “Làng Cò”.
Xóm Cò dân cư không đông lắm, với trên
hai chục nóc nhà, tuy thế cũng đủ để đại đội học viên chúng tôi đóng quân học
tập dã ngoại. Tiểu đội 4 của tôi được phân công ở trong ngôi nhà tranh giữa
xóm, chủ nhà là một bà mẹ già, hai cô gái lớn và một đứa cháu ngoại khoảng 4
tuổi, gia đình dành cho chúng tôi toàn bộ 2 gian nhà ngoài còn ba mẹ con họ ở
gian buồng phía trong. Khi đàn cò tao tác đi kiếm ăn cũng là lúc chúng tôi tập
trung thành đội hình ra thao trường huấn luyện tập bài chiến thuật “Tiểu đội bộ
binh tiến công địch phòng ngự ở địa hình rừng núi”. Những ngày đóng quân trong
nhà dân, sau giờ học tập, huấn luyện vất vả chúng tôi được sống trong tình cảm
và không khí ấm cúng tình quân dân cá nước làm vợi bớt đi những mệt nhọc của
nắng gió thao trường. Buổi tối miền sơn cước bao giờ cũng đến xớm, mùa đông thường
lạnh hơn, khi không phải sinh hoạt, tiểu đội chúng tôi thường cùng gia đình
ngồi quây quanh bếp lửa sửi ấm, nướng khoai lang, sít xoa bóc vỏ mời nhau ăn.
Bà mẹ của hai cô gai thật là vui tính và quý mến bộ đội, bà thường dành cho học
viên chúng tôi những củ khoai, củ sắn nướng thơm lừng, khoảng cách giữa chủ nhà
và bộ đội cứ ngắn dần và thân thiết đoàn kết gắn bó. Chúng tôi chuyện trò và
biết được hoàn cảnh của gia đình, nhà có hai chị em, cô em gái thứ hai đã học
xong phổ thông cơ sở, không có điều kiện học tiếp cấp III ở nhà giúp mẹ việc
ruộng đồng nương rẫy, cô chưa có chồng. Cô chị tuổi chừng trên 30 đã có một đứa
con trai lên 4 tuổi, suốt ngày cháu chỉ thích đi theo các chú bộ đội. Không
biết chồng cô làm gì ở đâu mà những ngày đóng quân tại gia đình cúng tôi không
hề gặp. Qua tìm hiểu, được biết chị tên là Dung, đã đi bộ đội mới về phục viên
được mấy năm nay. Khi về chị mang theo một đứa con trai, chị bảo chị chưa có
chồng, nhưng đã có con, điều đó làm chúng tôi tò mò muốn nghe chị kể lại những
vui buồn gian khổ đời lính của chị. Thế rồi, chị kể: Năm đó, chị nhập ngũ vào
bộ đội hậu cần, được đi học y tá rồi chị trở thành người chiến sĩ quân y phục
vụ tại Quân y viên 175 đóng quân ở Thành phố Hồ Chí Minh. Viện Quân y 175 là
một bệnh viện lớn của Quân đội, là tuyến cuối quân y ở các tỉnh phía Nam .
Ngày ấy, Viện 175 tràn ngập thương binh từ các tỉnh biên giới Tây Nam và
chiến trường nước bạn Campuchia về điều trị. Nhiều thương binh nặng với những
vết thương cực kỳ nguy hiểm rất cần sự cứu chữa của những bác sĩ giỏi và bàn
tay chăm sóc, tình cảm thương yêu của những nữ hộ lý, y tá của bệnh viện. Chị
là một trong những người rất cần như vậy, là nữ y tá đảm nhiệm cương vị hộ lý
chị hết lòng chăm hóc thương binh, từ phụ giúp bác sĩ mổ, gây mê hồi sức đến sự
chăm lo nơi ăn, chốn ngủ, gường nằm cho thương binh, có những lúc chị phải tận
tình bón từng thìa cháo, thìa sữa cho thương binh nặng, thay băng, rửa vết
thương, ngồi làm chỗ dựa và hát cho thương binh ngủ để họ dịu bớt những cơn đau
trên thân thể không lành lặn của họ. Chị làm việc nhiệt tình, quên cả vất vả,
mệt mỏi nhằm san sẻ những nỗi đau cho các anh bộ đội bị thương. Chị dành tình
thương thật sự cho người chiến sĩ, chỉ mong sao cho các anh mau khỏi bệnh, lành
vết thương được xuất viện xớm. Đáp lại tình thương yêu chăm sóc của chị, nhiều
thương binh được điều trị khỏi vết thương, luôn cám ơn sự chăm sóc đó. Trong sự
vất vả, trách nhiệm cũng có niềm vui, niềm hành phúc nhen nhúm, nảy sinh từ
trong đau đớn. Có một anh thương binh đồng hương cùng tỉnh Hòa Bình trong thời
gian điều trị tại bệnh viện luôn nhận được sự quan tâm, gần gủi, chăm sóc, tâm
sự của chị đã đem lòng yêu chị, một tình yêu thắm thiết của sự trân trọng và
biết ơn. Những lúc gần gủi chăm sóc, anh thường kể lại cho chị nghe về những kỷ
niệm đẹp từ thủa còn thơ cắp sách đến trường, chăn trâu cắt cỏ trên quê hương
Hòa Bình, làm cho chị bùi ngùi nhớ quê da diết và cũng từ lúc nào chị đem lòng
yêu anh thắm thiết mặc dù anh là thương binh nặng. Chị biết và trân trọng một
phần xương máu của anh đã gửi lại nơi chiến trường biên giới để cho quê hương
được bình yên. Như có phép mầu, đón nhận tình yêu và bàn tay chăm sóc dịu dàng
của chị, thương tật của anh hồi phục nhanh chóng. Trong một buổi tối cùng anh
đi dạo trong khuôn viên bệnh viện, hai người đã nói với nhau những lời yêu
thương tha thiết, một nụ hôn nóng hổi của người thương binh đồng hương đậu trên
môi người nữ y tá viện quân y và rồi từ đó tình yêu của họ ngày càng nồng thắm
như bao lứa đôi trai gái khác. Không cầm lòng được chị đã trao cho anh tất cả
sự trinh nguyên của người con gái. Thề là, ít lâu sau một mầm sống trong chị
đang lớn lên từng ngày, chị cảm thấy hạnh phúc đang đến rất gần với người con
gái sắp được làm vợ, làm mẹ.
Thế rồi, mặt trận biên giới phía Tây Nam
ngày càng nóng bỏng, thương binh về bệnh viện càng nhiều. Tạm ổn định thương
tật, chuẩn bị ra viện, đơn vị đưa xe về đón anh sang đất bạn tiếp tục chiến đấu
cứu dân thoát khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt. Anh đột ngột ra mặt trận, buổi chia
tay thật vội vã, chỉ có những cái bắt tay rất chặt và đôi mắt đắm đuối nhìn
nhau như hẹn ước ngày trở về gặp lại, anh chẳng nói lên lời mà chị cũng chỉ òa
lên khóc tiễn anh mà không kịp hẹn ước với nhau được điều gì, chỉ để lại đôi
dòng địa chỉ. Anh trở lại mặt trận chiến đấu vẫn chưa kịp biết mình đã có con
với một người con gái mà mình luôn quý trọng và biết ơn. Thế là chị sẽ trở
thành mẹ mà chưa một ngày được làm vợ. Khi đứa bé chào đời cũng là lúc chị nhận
được quyết định phục viên rời quân ngũ. Trở về gia đình, chị chẳng có gì cả
ngoài tài sản quý giá nhất đó là đứa con trai ngoài giá thú, nhưng đó là niềm
an ủi, một hạnh phúc không trọn vẹn của đời người con gái. Thôi thế cũng được,
mình cũng đừng gây khó dễ cho bất kỳ ai, cũng chẳng cần tìm quê nội của con làm
gì để gia đình anh ấy khỏi bận tâm vì có một người phụ nữ bỗng dưng bế con về
trả “nhà chồng”. Dân làng quê anh sẽ đồn thổi rằng anh là con người phụ bạc,
con trai chị lại mang tiếng là đứa con vô thừa nhận - chị nghĩ như vậy.
Về quê, chị và con âm thầm sống, âm thầm
chịu đựng. Chị cùng mẹ và em gái tần tảo xớm hôm lao động trên đồng ruộng,
nương rẫy làm ra hạt lúa củ khoai, nuôi sống chính mình và xã hội. Vốn là một
nữ y tá có tay nghề vững, chị gúp dân làng chữa bệnh, nhà ai có người ốm cần
đến là chị có mặt ngay, chị không nề hà vất vả xớm khuya giúp đỡ mọi người, nên
chị luôn được dân làng trong xóm Cò quý trọng và yêu mến.
Nghe chị kể mà chúng tôi buồn với nỗi
buồn và vui với niềm vui nho nhỏ mà đầy nỗi chân chuyên của chị.
Một buổi chiều, từ ngoài thao trường về,
trên đường làng chúng tôi gặp một người đàn ông ở độ tuổi trung niên, dáng
người mảnh khảnh, mặc bộ quân phục cũ, dắt chiếc xe đạp thống nhất đang ngó
nghiêng như muốn tìm một nhà ai đó, thỉnh thoảng lại nhìn vào một tờ giấy nhỏ
như muốn tìm hiểu điều gì. Khi gặp một bà cụ già, người đàn ông lễ phép hỏi:
- Cụ cho cháu hỏi thăm, đây có phải là
xóm Cò không ạ?
- Đúng rồi, đây chính là xóm Cò! Thế chú
hỏi nhà ai?
- Dạ cháu tìm nhà cô
Dung ạ, cô Nguyễn thị Dung là bộ đội phục viên ấy mà!
- Cô Dung ý tá phải không?
- Dạ phải ạ!
- Thế thì nhà cô ấy ở phía trước đấy,
ngôi nhà tranh có hàng cau trước cửa. Chắc giờ này cô ấy đi làm về rồi đấy,
tiện đường để tôi đưa chú đến đó.
Đến ngôi nhà tranh có hàng cau trước cửa,
người đàn ông ngập ngừng dắt xe vào ngõ. Bà cụ già đứng ngoài đường gọi vào:
- Cô Dung y tá ơi! nhà có khách ra mà đón
kìa.
Rồi bà cụ tiếp tục đi làm việc của mình.
Đang ngồi nhặt rau dưới bếp, chị Dung
nghe tiếng gọi, báo có khách đến thăm, chị vội đứng dậy chạy ra ngoài, nhìn
thấy người đàn ông dắt xe đạp đã vào đến sân có khuôn mặt quen quen. Bất chợt
chị nhận ra người mà mình chờ đợi bấy nhiêu năm, nay mới xuất hiện, chị đứng
xững người, mớ rau muống trên tay chợt rơi xuống đất lúc nào mà chị không hề
biết. Đôi dòng nước mắt của chị chẩy dài mà không tài nào thốt nên lời.
Chẳng khác gì chị, người đàn ông cứ vậy
đứng nhìn chị khóc mà chẳng có lời nói và hành động gì, chiếc xe đạp không có
chỗ dựa lăn kềnh ra đất. Tự nhiên như hai luồng điện lóe sáng.
- Dung em, anh đi tìm em mãi! Đúng là em
rồi?
- Anh Tuấn, có phải anh Tuấn thương binh
không?
- Anh đây, tưởngrằng trong cuộc đời này
anh không được gặp em nữa!
- Thế anh đi đâu mà mãi đến giờ mới đến
tìm em. Vào nhà đi anh, sao cứ đứng ngoài sân thế này.
Tuấn vội vàng chạy về phía Dung như muốn
ôm người yêu vào lòng nhưng ngượng ngập, bẽn lẽn, một lúc lâu sau hai người mới
dắt tay nhau vào nhà. Thằng bé con chẳng hiểu mô tê chi cả liến láu hỏi mẹ “Nhà
mình có khách hả mẹ. Bác bộ đội này ở xa đến hả mẹ, Bác có ăn cơm nhà mình
không?”
Thế rồi, ít lâu sau, đám cưới của chị Dung
và anh Tuấn được tổ chức rất đơn giản nhưng ấm cúng. Chị theo chồng về làm dâu
nhà người tuy có đôi chút muộn màng nhưng tràn đầy hạnh phúc. Người mẹ của đứa
trẻ ấy sau những năm tháng dài âm thầm chờ đợi không hy vọng nay đã được làm
vợ.
Một mối tình của lính dẫu gặp nhiều gian
truân và vô vàn trắc trở do hoàn cảnh chiến tranh để lại nay đã được đoàn tụ.
Hạnh phúc luôn mỉm cười với ai biết trân trọng và kiên trì chờ đợi, niềm tin
người lính mãi mãi được tỏa sáng đối với những ai có tấm lòng cao thượng.
Chiến tranh có thể cướp đi nhiều thứ, có
thể cả tính mạng nhưng tình yêu thì mãi mãi không thể lấy đi.
Hạnh phúc dẫu muộn màng nhưng niềm tin
luôn chiến thắng.
LÀNG NUÔI RẮN Ở
SƠN TÂY
Phụng
Thượng là một xã thuần nông, một trong những vựa lúa của huyện, đất ở đây mầu
mỡ, dễ canh tác, lúa tốt, hạt mẩy, năng xuất cao, gạo ngon cơm dẻo. Tuy nhiên,
Phụng Thượng có dân số đông, diện tích hẹp, ruộng đất cứ ít dần so với tỷ lệ
tăng dân số (người đẻ chứ ruộng đất không đẻ), nên lao động dôi dư nhiều, việc
làm thiếu. Người dân Phụng Thượng năng động, sáng tạo, luôn vươn lên chiến
thắng đói nghèo và tìm cách làm giầu bằng chính đôi tay, khối óc, sức lực của
mình. Họ làm nhiều nghề, đi đến nhiều nơi để buôn bán và tổ chức làm nghề phụ,
chăn nuôi các loại động vạt hoang dã từ gấu, nai, kỳ đà, trăn, rắn... Đặc biệt
là người dân Phụng Thượng chú trọng chăn nuôi rắn hổ mang xuất khẩu, đây là một
nghề nguy hiểm, có thể nói là nghề nuôi rắn "tử thần". Bởi vì, rắn hổ
mang có hai loại đó là rắn hổ mang bành (hổ mang phì) và hổ mang chúa. Rắn hổ
mang bành có nọc rất độc nhưng không thể độc bằng rắn hổ mang chúa. Rắn hổ mang
chúa có nọc cực độc, người hoặc động vật bị loại rắn này coi như lĩnh án tử
hình, ít có khả năng cứu chữa được. Khi nọc rắn hổ mang chúa đã vào máu thì đành
bó tay, kể cả những ông lang giỏi nhất của nghề chữa rắn cắn đến những bệnh
viện hiện đại nhất cũng khó mà chữa khỏi.
Trò chuyện với
anh Đỗ Thế Thọ - một người làm nghề nuôi rắn hổ mang chúa, quê ở xã Phụng
Thượng-huyện Phúc Thọ-tp Hà Nội, anh cho biết: ở xã Phụng Thượng của anh hiện
nay có 19 cô gái tuổi đời còn rất trẻ nhưng đã là những người đàn bà goá chồng
do chồng của họ bị rắn hổ mang chúa cắn. Mặc dù các đức ông chồng của các cô
đều là những người nuôi rắn hổ mang cự phách, nhưng họ đã "tử vì nghệ".
Đa số họ chết khi bị chính những con rắn hổ mang chúa của mình cắn với nhiều
tình huống bất khả kháng khác nhau. Mà đã bị hổ mang chúa cắn coi như cầm chắc
cái chết, mặc dù họ đều có kinh nghiệm nuôi rắn và chữa rắn độc cắn. Họ bị rắn
cắn trong quá trình chăm sóc rắn, cho rắn ăn, chỉ một chút lơ là, bất cẩn mà
tính mạng của họ bị huỷ hoại. Có người vừa mở nắp hầm nuôi rắn ra, liền bị hổ
mang chúa mổ đúng vào môi nên không thể garo được, chất độc ngấm vào máu, người
tím tái đến chết. Có người vừa mở tủ quần áo ra liền bị rắn hổ mang chúa nằm
trong tủ lúc nào không biết mổ vào mặt thế rồi cũng không thể thoát được lưỡi
hái của tử thần. Hầu hết, những người bị rắn hổ mang chúa cắn mặc dù biết chết
nhưng đành chịu bó tay, chỉ dặn vội vợ con phải cận trọng hơn trong khi chăm
sóc rắn và đến lứa thì bán đi đừng nuôi chúng nữa, kẻo hại đến tính mạng. Họ ra
đi để lại những người vợ trẻ, những đứa con thơ và món tiền nợ ngân hàng lên
đến hàng chục triệu đồng.
Tâm
sự với tôi, anh Đỗ Thế Thọ kể tiếp: hiện nay tôi không còn nuôi rắn hổ mang
chúa nữa mà chuyển sang làm nghề khác vì nuôi rắn nguy hiểm quá, nguy hiểm
không những cho mình mà cho cả vợ con và gia đình nữa. Anh biết không, nghề
nuôi rắn hổ mang cũng đầy rủi ro; nguy hiểm thì ai cũng biết nhưng rủi ro thì có
ở trong nghề mới rõ. Chỉ cần rắn bị bệnh, bỏ ăn, không lớn được hoặc bị chết
thì người nuôi rắn sẽ bị lỗ nặng, tiền vay ngân hàng lãi mẹ đẻ lãi con, có khi
dẫn đến phá sản. Nhưng đáng sợ nhất vẫn là nguy hiểm cận kề. Hồi đó, đàn rắn
nhà tôi có một con hổ mang chúa khá to, nặng khoảng trên 7 kg, nhà tôi hôm ấy
gặp may nếu không thì chưa biết điều gì đã xảy ra. Buổi tối hôm trước khi cho
rắn ăn, tôi đậy nắp hầm không kín, với sức mạnh của con rắn lớn, trưa hôm sau,
lúc đói, nó đội nắp hầm chui ra ngoài, bò thẳng đến tấm phản nơi có đứa con
trai 3 tuổi của tôi đang nằm ngủ, nó trườn qua người thằng bé, vợ chồng tôi
nhìn thấy rợn hết tóc gáy nhưng đành phải đứng bất động nhìn con rắn trườn trên
người đứa con yêu thương của mình mà không làm gì được, chỉ cần thằng bé cựa
quậy là cháu sẽ bị nó cắn ngay và chúng tôi sẽ mãi mãi mất con. May thay, thằng
bé vẫn ngủ ngon lành, không hay biết gì cả, con rắn từ từ trườn vào gầm giường
nơi mát mẻ nằm cuộn tròn ở đó. Vợ tôi vội rón rén đến bế con lên tránh xa con
rắn đó, tôi bình tĩnh vào gầm giường túm đuôi lần theo lưng rắn, chẹn ngang
đầu, bắt nó thả vào hầm nuôi đậy kín lại và cho nó ăn. Thật là hú vía, xong
việc chân tay chúng tôi mới run lên bầy bật, may mà có trời phật giúp đỡ chứ
không thì hôm đó chúng tôi đã bị mất đứa con trai yêu quý của mình. Sau này lứa
rắn đó lớn lên đủ trọng lượng xuất chuồng, gia đình tôi bán đi tất cả và quyết
định từ đó không bao giờ nuôi rắn độc trong nhà nữa. Nhưng ở xã Phụng Thượng
thì vẫn còn những hầm nuôi rắn độc của nhiều nhà dân, nên ở đây luôn đầy rẵy
nguy hiểm cận kề. Tôi chỉ sợ trong làng, trong xã không dừng lại ở con số 19
phụ nữ goá chồng nữa mà còn có thể nhiều người sấu số hơn thì đáng buồn biết
bao.
Tò
mò, tôi hỏi anh Đỗ Thế Thọ, nuôi rắn hổ mang chúa cho nó ăn bằng gì, anh Thọ
cho biết, nếu như rắn hổ mang bành chuyên ăn chuột, ăn cóc thì rắn hổ mang chúa
không ăn chuột, ăn cóc mà thức ăn của chúng chính là đồng loại. Vì nọc của hổ
mang chúa là độc nhất nên nó không sợ bất kỳ loài rắn nào, nó ăn thịt tất cả
các loài rắn khi bắt gặp kể cả rắn hổ mang bành hoặc rắn cạp nong, cạp nia.
Người nuôi rắn thường thu mua các loại rắn khác mang về làm thức ăn cho rắn hổ
mang chúa. Trước khi cho chúng ăn, người nuôi thường làm sạch ruột rắn mồi và
nhét vào đó thuốc kháng sinh, thuốc bổ, thuốc tăng trọng và vitamin để rắn hổ
mang chúa không bị mắc bệnh và chóng lớn, nhanh xuất chuồng.
Trong
môi trường ở nước ta, hầu như hổ mang chúa không sinh sản được, nên nguồn rắn
giống phải nhập khẩu từ nước ngoài, chính những cánh rừng già ở Campuchia, Lào,
Thái Lan là nơi cung cấp rắn hổ mang chúa vào Việt Nam. Đến nước ta có bao
nhiêu cá thể rắn hổ mang chúa giống thì phát triển bấy nhiêu rắn trưởng thành
chứ không sinh sản thêm được cá thể nào nữa. Chúng được nhập khẩu lậu theo
đường tiểu ngạch mỗi cá thể nặng khoảng 0,5 - 0,7 kg, nửa năm sau rắn lớn lên
nặng khoảng 7-8kg, cá biệt con to nhất nặng đến 17 kg. Rắn càng to thì nọc càng
độc. Loại Hổ mang chúa to nặng này mà cắn thì đến voi, trâu cũng chết, nói chi
đến con người. Nhưng hổ mang chúa có nọc
độc nhất khi nó sắp lột xác; con rắn có dáng chậm chạp, hai mắt mờ đục, da xù
vẩy, ấy là lúc chuẩn bị lột xác, nọc cực độc, cắn người và động vật chết ngay
lập tức.
Nuôi rắn hổ mang chúa rất nguy hiểm, cái chết luôn
rình rập bên cạnh, nhưng vì lợi nhuận kinh tế cao nên nhiều hộ dân ở Phụng
Thượng vẫn cứ nuôi. Một kg rắn hổ mang chúa có giá lên đến 2 triệu đồng, trong
khi đó một kg rắn hổ mang bành chỉ có giá khoảng 87 nghìn đồng mà thôi. Theo
anh Thọ nói: trong một số gia đình nuôi rắn hổ mang chúa đã có những nhà nuôi
được những con rắn nặng đến 17, 18 kg tức là đã có số tiền trị giá bằng một
chiếc xe máy đắt tiền. Vì vậy, biết nguy hiểm cận kề nhưng nhiều người dân ở
đây vẫn cứ tiến hành nuôi rắn hổ mang chúa, thậm chí họ còn chăm sóc loài vật
nguy hiểm này cẩn thận hơn những loại vật nuôi khác. Khi rắn hổ mang chúa bị ốm
hoặc chúng lười ăn, người nuôi rắn phải nhét mồi vào miệng và ấn vào bụng rắn
như ta nhồi bánh đúc cho gà ăn vậy, thật là nguy hiểm. Nhưng vì miếng cơm manh
áo và phát triển kinh tế, ở Phụng Thượng những ông chủ nuôi rắn thấy rất bình
thường, họ bắt rắn như ta bắt gà vậy, tuy nhiên ở họ chắc là có bí quyết riêng,
nếu không họ sẽ bị rắn cắn ngay lập tức.
Rời
làng rắn Phụng Thượng, tôi thấy gai người khi nghĩ lại cái cảm giác của anh Đỗ
Thế Thọ chứng kiến con rắn hổ mang chúa nặng gần một yến trườn qua người đứa
con trai 3 tuổi thân yêu của mình khi cháu đang nằm ngủ bình yên giữa căn nhà
yêu dấu của mình.
BIỂN HÁT CHIỀU
NAY
MỘT CA KHÚC VỀ
BIỂN CÒN MÃI VỚI THỜI GIAN
Trong các bài hát về biển có rất
nhiều bài hay, nhưng có một ca khúc để lại nhiều cảm xúc và ấn tượng nhất đối
với thính giả đó là ca khúc "Biển hát chiều nay" của Nhạc sĩ Hồng
Đăng. Ca khúc về biển này có giai điệu đằm thắm, thiết tha, lời ca gần gũi, trong sáng, thân tình mà sâu nặng.
Mở đầu là câu hát "Chân
trời rất xa gọi nắng xôn xao" mở ra một
khoảng không gian rộng lớn về biển với mầu xanh bất tận đến chân trời,
xôn xao ánh nắng gọi về. Biển hiền hoà, hào phóng, biển mang về cho quê hương
nhiều hải sản quý hiếm, nuôi sống con người, biển giữ vững an ninh chính trị,
biển là phên dậu của Tổ quốc. Đất nước rộng dài bao gồm đất liền, thềm lục địa
và các hải đảo xa xôi. Biển cả với mặt nước mênh mông, rộng và đẹp biết nhường
nào. Tổ quốc như một gấm hoa, ở đó biển chính là bông hoa đẹp nhất, xanh trong,
nắng và gió mát lành "Chân trời rất xa gọi nắng xôn xao". Hình tượng
những con tầu ra khơi xa đầy ắp cá trở về làm nên no ấm. Những cánh buồm no gió
vươn xa cùng cánh hải âu thấp thoáng, những vạt nắng chiều trở về cảng, cá ngập
đầy khoang hoà trong nhiềm vui chung của những ngư dân ven biển. "Con
thuyền rất vui gọi nắng mới ngọt ngào", những cô gái làng chài xinh đẹp, e
ấp trong vành nón trắng, trên vai đôi quang ra đón thuyền cập bến và những gánh
nặng đầy no ấm. áo xanh hoà vào mây trắng làm sôn xao rộn rã cả một góc biển
chiều. Đại dương bao la luôn đợi chờ những khát khao của những tâm hồn và trí
tuệ muốn làm chủ biển khơi, khám phá tiềm năng của biển. Những con sóng xanh,
sóng bạc cứ nối đuôi nhau đùa vui không dứt, nhưng ở đó còn dấu diếm bao điều
thầm kín. Phía xa chân trời, mầu biển xanh gợi nhớ những ánh mắt thăm thẳm
ngóng chờ tin người thân xa khơi. Biển là thử thách, là rèn luyện, là đón chờ
những ý chí dám vươn xa, những khát khao không mệt mỏi, những cánh tay vươn dài
về phía đại dương xanh thẳm. Màu xanh ấy là niềm tin, là sự sống, là hy vọng và
đợi chờ từ hai phía. Những dải mũ hải quân, những tà áo trắng lính thuỷ, những
đôi tay rắn chắc bẻ lái các con tầu vẫn hiện hữu nụ cười xinh tươi về những
nàng tiên của biển nơi hậu phương xa lắc "Môi cười rất xinh, lung linh mầu
áo, mây trắng gợn lên những khát khao đại dương". Câu hát cứ vời vợi, vừa
gần gủi vừa xa xôi, như có thể nắm lấy, nhìn thấy, sờ thấy, nhưng khát khao
thăm thẳm và vẫn phải đợi chờ.
Vẫn
biết biển rộng mênh mông là thế, biển là những con sóng là hào phóng nhưng cũng
rình rập những hiểm nguy, chỉ khi nào con tầu cặp bến, hoàn thành sứ mạng thì
người giữ biển mới có em, lúc ấy người lính biển đan tay cùng người yêu dạo phố
Cam Ranh, Vũng Tầu, Nha trang, Hải Phòng... Khi con tầu còn lắng sóng trên biển
thì người yêu của anh chính là biển xanh. Khi những chiếc thuyền ra khơi mà cá
chưa đầy khoang thì mây trời và những con sóng vẫn là hướng cần tìm, đành gác
lại tình em vào dịp khác. Cứ mỗi buổi bình minh với mầu nắng mới ngọt ngào toả
khắp không gian lại mở ra phía chân trời khát khao và hy vọng mới. Nơi ấy gọi
người đi xa, nơi ấy có gió xôn xao, có lung linh mầu nắng và tràn trề những
niềm vui mới. Nhạc sĩ Hồng Đăng vẽ ra một bức tranh về đại dương xanh thẳm,
rộng lớn. Biển gọi người đi khám phá những điều kỳ thú, bất chấp những cản trở
của thiên nhiên và kẻ thù tiềm ẩn. Gợi cho bao con người những điều cần biết về
biển đảo Việt Nam
"Có gì sáng nay mà gió xôn xao, chân trời vẫn xanh mầu nắng vẫn ngọt ngào".
Đúng là biển Việt Nam giống như con người Việt Nam một nắng hai sương, giống
dải đất Việt Nam hình chữ S oằn mình chịu bão táp phong ba, giống lịch sử Việt
nam bốn nghìn năm tồn tại và linh thiêng, giống chân lý Việt Nam kiên cường và
bất khuất, giống con tầu Việt Nam rẽ sóng vươn xa vượt qua muôn vàn bão tố. Để
con người Việt Nam làm chủ tương lai, để đất nước Việt Nam như một dáng rồng
bay, để lịch sử Việt Nam oai hùng và bất tử, để chân lý Việt Nam mãi mãi vững
bền, để con tầu Việt Nam hoà nhập cùng đại dương "Ơi biển Việt Nam, ơi
sóng Việt Nam, qua bao nhiêu thăng trầm mà chiều nay vẫn dịu dàng". Khổ
đau nhiều nên yêu thương lắm, gian khổ đạn bom, thuỷ lôi, tàu chiến địch quần
đảo làm rách biển nhiều lần, vết thương chưa lành, biển tạm quên đi những buốt
sót, để nghĩ về quê hương, để xây dựng quê hương, xây dựng tiềm năng biển, đảo,
khai thác thềm lục địa, khoan mỏ tìm dầu và để biển hát tình ca. Biển luôn hào
phóng và tha thứ "Vùi sâu dưới đáy những gì yêu thương, biển lại hát tình
ca, biển kể chuyện yêu thương". Rất nhân văn và đậm đà tình nghĩa, biết
căm thù nhưng cũng biết yêu thương. Biển Việt Nam tạm quên đi những qua khứ, mở
ra nhiều tương lai, đa phương hoá quan hệ, là bạn với mọi người, bắt tay thiện
chí với đối tác. Biển Việt Nam là thế đấy, với quê hương biển luôn cận kề, chở
che cho đất, biển là thành luỹ, biển là tiềm năng, là niềm hy vọng, là bản nhạc
muôn đời sóng vỗ du dương nhưng với kẻ thù thì sẵn sàng chôn vùi chúng mỗi khi
chúng xâm lược.
Mọi
con sóng luôn bắt nguồn từ biển và hối hả đổ bờ với những yêu thương, hờn giận,
cả oai hùng và cay đắng. Con người Việt Nam ,
biển Việt Nam
là những dũng sĩ có sức mạnh vô địch, sức mạnh đó bắt nguồn từ tình yêu với
những thăng trầm trải dài qua năm tháng. Nhạc sĩ Hồng Đăng với nguồn cảm xúc và
tình yêu biển thiết tha, từ đáy lòng đã làm nên một ca khúc để đời và sống mãi
với thời gian, để cho mỗi cuộc đời và cả quê hương đều nhân lên tình yêu với
biển, tình yêu con người với con người, tình yêu với quê hương đất nước. Thử thách ấy được chính biển xanh ghi nhận và
giữ gìn vào lòng đại dương xanh thẳm "Mỗi một tình yêu, mỗi một cuộc đời;
qua bao nhiêu thăng trầm lửa thử vàng mới nên người; biển xanh vẫn nhắc những
lời yêu thương; biển vẫn hát tình ca, biển kể chuyện quê hương". Kết thúc
bài hát, những lời ca ngọt ngào, sâu lắng như nhắc nhở, nhắn gửi đối với mỗi
người về những trăn trở và cần phải làm gì với biển quê hương.
"MẶT TRỜI BÉ CON" CÒN MÃI
TRONG TÂM HỒN NGƯỜI CHIẾN SĨ
Tình cảm thân thiết, gắn bó giữa các
chú bộ đội và các cháu thiếu nhi đã được thể hiện rất rõ trong cuộc sống và
trong sách báo cũng như các hình thức nghệ thuật khác. Các nhạc sĩ đã có những
bài hát rất hay dành cho thiếu nhi và nói về tình cảm giữa các cháu đối với các
chú bộ đội. Trong số những bài hát đó, đáng chú ý và trân trọng là bài hát
"Mặt trời bé con" của Nhạc sĩ Trần Tiến. Giai điệu và lời ca của bài
hát không những đã thể hiện rõ những tình cảm gắn bó thân thiết của những
"cô bé, cậu bé" đối với các chú bộ đội mà còn thể hiện những khát
vọng trở thành người lớn với những ước mơ cháy bỏng của các cô cậu ở độ tuổi
học trò.
Tự hào và khâm phục biết bao người
chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam mạnh mẽ trong chiến đấu, vững vàng đi đầu
trong phòng chống thiên tai, bão lũ, cứu hộ, cứu nạn nhưng cũng rất giầu tình
cảm, trí tuệ và tài năng. Chỉ một thời gian ngắn ngủi, rãnh rỗi lúc xa nhà, anh
ngồi đàn hát những bài ca cách mạng sao mà hay quá, tha thiết quá, thu hút quá,
mở ra một khoảng trời mơ ước lớn biết
nhường nào, để những "cô bé, cậu bé" nghe và "cười mơ màng"
đầy ắp niềm vui. Người chiến sĩ thả tâm hồn của mình vào bài hát say sưa như
quên đi chính mình và cũng không hề biết rằng có người đang nghe trộm bài hát
của mình. Tâm hồn của người chiến sĩ
trong trắng vô tư đến vậy và của cô bé, cậu bé học trò ngây thơ quá độ, nghe
đến đam me và cuốn hút quên cả hoàn cảnh của chính mình. Các đối tượng rơi vào
các hoàn cảnh khác nhau, một người "mắt tròn xoe đám say" một người
không nhớ mnổi chính mình đang hát đến đoàn nào của bài hát "Đàn tôi hát câu
chi, mà sao cô bé cười" mở đôi mắt tròn xoe.
Cảm ơn người nhạc sĩ tài hoa đã đưa
vào điệu nhạc, lời ca những âm thanh đồng điệu của các em nhỏ đối với các chú
"bộ đội Cụ Hồ", tình cảm tha thiết đến vậy. Sự hoà đồng lên đến đỉnh
điểm, chỉ là vô tình nhưng anh chiến sĩ vẫn say sưa đàn hát; rất cố ý nên các
em bé đã quên đi cả những trò chơi khác "bắn bi, đánh đáo, trốn tìm"
để tập trung nghe những âm thanh tâm tình của người chiến sĩ xa nhà. Quả thật
đối với anh chiến sĩ hết bất ngờ này, đến bất ngờ khác ập tới, từ khi bắt gặp
cô bé trèo cành me nghe anh hát đến khi thấy cô bé mắt tròn xoe nghe tiếng đàn
của anh.
Chỉ một hình tượng người chiến sĩ và
cô bé kia thôi cũng đã nói rõ được tình đoàn kết quân dân, tình cảm của
"Bộ đội Cụ Hồ" với các cháu thiếu niên, nhi đồng. Hẵn rằng trong mắt
các cháu trẻ thơ hình ảnh các chú bộ đội rất đẹp, là ước mơ của bao cô cậu học
trò, của bao chàng trai cô gái, đó là niềm tin, là hy vọng, là ước mơ, là hứa
hẹn của các cháu vào tương lai tươi sáng.
Người chiến sĩ vẫn mong các cháu lớn
từng ngày, trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Niềm tin ấy thắp
sáng theo năm tháng "Trời mưa quá bao lâu, mà sao cô vẫn chờ, vẫn
đợi". Đây chính là niềm tin, hy vọng của những tâm hồn trong trắng ngây
thơ. Biết đâu ngày mai cô bé trở thành cô giáo, anh chiến sĩ trở thành một sĩ
quan quân đội. Mà tâm hồn sĩ quan và cô giáo trường làng thường có những đồng
cảm sâu sắc và một sức hút vô tình nào đó, để lúc ấy cô bé không phải trèo cành
me nghe trộm bài hát của anh chiến sĩ nữa. Mong muốn đó quá giản dị và đơn sơ
như chính cuộc đời của họ vậy "Hạnh phúc quá đơn sơ, đời tôi đâu có ngờ
như chờ từng giấc mơ". Chắc Nhạc sỹ Trần Tiến cũng rất xúc động khi chứng
kiến cô bé, cậu bé kia yêu ca nhạc đến nhường nào và quý mến chú bộ đội đến
đâu mới phải nhìn qua khe cửa và trèo lên cành me để nghe chú đàn, chú hát.
Thật là hạnh phúc đối với người chiến
sĩ xa quê luôn có những người quan tâm đến tiếng đàn tiếng hát tức là quan tâm
đến chính mình, mặc dù những người đó chỉ là những "cô bé", "chú
bé". Nỗi niềm đó luôn là chờ đợi, ngóng trông, là niềm hy vọng thiết tha
dù cho đó có phải là sự chờ đợi đơn sơ nhất. Anh chiến sĩ xa nhà, anh chiến sĩ
hát, anh chiến sĩ đàn, đó là điều bình thường của cuộc sống, nhưng với thế
giới trẻ thơ hình ảnh chú bộ đội luôn là hình ảnh cao thượng, là niềm tin, là
hy vọng, là ước muốn lớn lao của biết bao thế hệ "người lớn" khi
tuổi còn thơ.
Đẹp thay, hình ảnh "Anh bộ đội Cụ
Hồ" cũng luôn lắng động trong lòng người Nhạc sỹ tài hoa. Bằng ngôn ngữ
âm nhạc, Trần Tiến đã chụp lại tấm hình với đủ các sắc mầu của âm thanh mối
quan hệ mật thiết ân tình, sâu lắng và sinh động của người chiến sĩ và các
cháu thiếu nhi. Với ống kính âm thanh vang vọng ấy, càng tôn vinh ân tình người
chiến sĩ và tâm hồn trẻ thơ đến tuyệt đẹp. Thật là cao thượng và thiêng liêng
đến nhường nào, những "thiên thần bé nhỏ" luôn tồn tại và là mục
tiêu chiến đấu của biết bao thế hệ "Bộ đội Cụ Hồ". Cảm phục sự phát
hiện tinh tuý của Nhạc sỹ về những điều kỳ thú ấy của "Thế giới trẻ
thơ". Ngôn ngữ âm nhạc quả là có sức mạnh diệu kỳ, nó làm lay động đến tận
tâm khảm của mỗi người, rồi cứ ngấm dần, ngấm dần, thẩm thấu êm dịu và lung
linh huyền ảo, tạo nên sự đam mê của từng tấm lòng yêu trẻ.
Biết rằng, cuộc sống vẫn còn đầy dẫy
những vất vả, lo toan, nhưng những giai điệu âm thanh trong trẻo, vui tươi và
nhân hậu đó làm thổn thức, rung động bao trái tim và khối óc người Việt Nam.
Hiểu rằng, tăng thêm trách nhiệm chăm lo cho thế hệ tương lai, những trẻ thơ
của đất nước là của mọi người.
Một sự thật đến độ yêu thương và dễ
thông cảm cho cả chú và các cháu, đàn hát và nghe đàn hát say sưa đến quên cả
chính mình, để cho trời mưa ướt cả bản nhạc, lời ca đến độ ray dứt khôn
nguôi, câu ca như cứa vào trái tim người nỗi niềm luyến tiếc báu vật tinh
thần của chú và cháu "Trời mưa quá bao lâu, bài ca ướt mất rồi còn đâu
?". Nhưng dù sao tiếng đàn của anh chiến sĩ vẫn mãi mãi là niềm tin, niềm
hy vọng không bao giờ tắt đối với các cháu thiếu nhi "Đàn anh đã cho tôi
dòng sông mang cánh buồm khát vọng". Chính lời ca và điệu nhạc cảm động
ấy, là ngọn lửa thắp sáng mãi tâm hồn trẻ thơ và những tâm hồn trẻ thơ cũng là
những đề tài vô tận, những cảm hứng thiết tha để các nhạc sỹ sáng tác.
Bài hát đã kết thúc rồi, nhưng âm hưởng
của nó vẫn lắng sâu trong tâm trí của bao người nói chung và người chiến sĩ
nói riêng. Riêng tôi luôn ở trong tâm trạng mong muốn được nghe nhiều lần bài
hát "Mặt trời bé con", được nhâm nhi thưởng thức nó như được nhâm
nhị một cốc rượu đầy đang "sủi bọt".
NỖI NHỚ S«ng quª"
Trªn thao trêng, sau
nh÷ng giê luyÖn tËp vÊt v¶, häc viªn Lôc qu©n tô tËp bªn nhau v©y quanh c©y ®µn
ghi ta bËp bïng vµ h¸t cho nhau nghe nh÷ng ca khóc c¸ch m¹ng ca ngîi Tæ quèc,
ca ngîi quª h¬ng, ®Ó dÞu bít ®i c¸i n¾ng mïa hÌ gay g¾t, xua tan ®i nh÷ng mÖt
nhäc thao trêng. Ai còng thÝch h¸t vµ nghe nh÷ng bµi h¸t vÒ quª h¬ng, bëi ë
®ã ®Çy ¾p nh÷ng kû niÖm tuæi th¬ cña hä. Mét trong nh÷ng bµi h¸t ®ã lµ
"Khóc h¸t s«ng quª" cña Nh¹c sü NguyÔn Träng T¹o ®îc mäi ngêi yªu
thÝch nhÊt. Bëi, xa quª, ai còng nhí vÒ quª h¬ng, ngêi lÝnh còng vËy, quª h¬ng
g¾n bã mét thêi kh«ng thÓ nµo quªn. Ngêi lÝnh lín lªn tõ b¸t c¬m quª, tõ
tiÕng ru Çu ¬i cña mÑ, ra ®i tõ nh÷ng c©u ca cña bµ víi c¸nh cß, c¸nh v¹c bªn
s«ng. Quªn sao ®îc qu¶ cµ ch¸t mÆn, nh÷ng ngän rau muèng, rau dÒn c»n cçi,
qu¶ bÇu lñng l¼ng treo trªn giµn cha b¾c véi b»ng cét gç, cµnh tre. Nh÷ng ®ªm
tr¨ng s¸ng trai g¸i lµng rñ nhau ngåi c¹nh bê s«ng hoÆc trªn nh÷ng triÒn ®ª
hãng giã, ®ïa nhau t¸n tØnh mÊy c©u ch¼ng cã cuèi, cã ®Çu. ThÕ mµ hä yªu nhau
råi ra ®i cÇm sóng, ®Ó tríc qu©n thï d¸m hy sinh cho th«n lµng ®îc ªm Êm, yªn vui; ®Ó tiÕng ru cña mÑ, cña bµ vÉn
ngµn ®êi m·i m·i ng©n vang; ®Ó c¸nh cß, c¸nh v¹c vÉn cø lÆn léi trong c©u ca
dao kh«ng bao giê t¾t. §Õn h«m nay, Tæ quèc hoµ b×nh, ®Êt níc ph¸t triÓn,
nh©n d©n Êm no h¹nh phóc, nhng ngêi lÝnh vÉn cø m·i xa quª, vÉn canh c¸nh
nhí vÒ mét lµng quª cña m×nh. ë ®ã cã con s«ng quª yªu dÊu, n¬i Êy cã trµn trÒ kû
niÖm kh«ng thÓ phai mê, cã con ®ß xa, cã chç ngåi ngãng mÑ, cã ®µn tr©u ®ñng
®Ønh mçi chiÒu bu«ng, cã c¸c em th¬ t¾m m¸t díi tra hÌ. Hoµi niÖm Êy cóa ïa
vÒ bÊt tËn, ®Õn l¾ng s©u, dÞu rµng, tan n¸t mçi khi ®îc nghe "Khóc h¸t
s«ng quª" cña NguyÔn Träng T¹o. Chao «i! ngêi lÝnh xa quª ®Õn qu¸ nöa
®êi ngêi, nhng mçi khi ®îc trë l¹i th¨m quª, ®îc óp mÆt trªn dßng s«ng
tho¶ thÝch, ®îc kho¶ m¸t, ®¾m m×nh díi dßng níc xanh ng¨n ng¾t míi thÊy
hÕt c¸i tét cïng cña nçi nhí quª da diÕt. Nçi nhí Êy ®îc tÝch tô l©u ngµy råi
vì oµ ra cïng dßng ch¶y cña s«ng quª. Trªn ®êi nµy kh«ng cã g× bao la b»ng Tæ
quèc, kh«ng cã g× réng më nh lßng mÑ vµ dßng s«ng th¬ Êu còng kh¾c kho¶i nhí
mong vµ d¹t dµo nh lßng mÑ, lµm sao cã thÓ quªn ®îc hìi ngêi ! Gian lao
vÊt v¶ cña ngêi ra ®i cÇm sóng b¶o vÖ quª h¬ng, ®èi mÆt víi hy sinh, víi "chíp bÓ, ma
nguån", nhng vÉn cã niÒm tin chiÕn th¾ng, vÉn trµn trÒ hy väng phï sa
cña quª h¬ng sÏ mang vÒ mïa mµng béi thu, vÒ nh÷ng c¸nh ®ång 5 tÊn, c¸nh ®ång
cña 50 triÖu/ha. DÉu cho cã "n¾ng th¸ng s¸u, b·o th¸ng bÈy" th× ngêi
lÝnh vÉn nhí vÒ quª mÑ ë ®ã cã dßng s«ng quª, cã c©u hß väng m·i bÕn s«ng xa.
§Êt níc ViÖt Nam
th©n yªu nµy, lµng quª nµo còng cã mét dßng s«ng, con suèi ch¶y qua. Nh÷ng kû
niÖm ªm ®Òm cßn ®éng m·i trong lßng ngêi xa quª. Tuæi th¬ vêi vîi g¾n bã víi
dßng s«ng, ai ®ã m×nh trÇn, ch©n ®Êt, quÇn ®ïi ngôp lÆn gi÷a dßng ch¶y tra hÌ
®Õn ch¸y x¸m thÞt da. Råi ch¨n tr©u, c¾t cá lËt ®Ët quanh n¨m, thÊm ®Ém nçi vÊt
v¶ cña lµng quª nghÌo. Quªn sao ®îc c¸i ®ãi ®Õn cån cµo, thÌm mét b¸t c¬m
khoai, mét cñ s¾n lïi, mét n¾m ng« rang; thÕ ®Êy, ®ãi ®Õn nao lßng mµ trong bÕp
vÉn l¹nh tanh v× cha cã g¹o thæi c¬m. VËy th× ra bê s«ng ngåi hãng giã, ngãng
mÑ vÒ chî víi x©u b¸nh ®a võng, vµi ba c©y mÝa ë trong tëng tîng ®· c¶m
thÊy no råi. Khi trËn m¹c ®i qua, ®Êt níc yªn b×nh, nçi nhí s«ng quª ®Ó dµnh
lµm kû niÖm "S«ng cßn nhí ch¨ng? n¬i ta ngåi ngãng mÑ, vêi vîi tuæi
th¬…"
Nh¹c sü NguyÔn
Träng T¹o vµ nhµ th¬ Lª Huy MËu tµi ba ®· nãi giïm ta nh÷ng kû niÖm ªm ®Òm mµ
da diÕt ®ã. C¸i yªu th¬ng tr×u mÕn ®Õn kh¾c nghiÖt cña tuæi th¬ nghÌo vÒ mét
dßng s«ng quª lu«n in ®Ëm trong lßng ngêi lÝnh xa quª. DÉu r»ng c¸c dßng s«ng
bao giê còng cho nh÷ng mïa mµng t¬i tèt, ®ã lµ t¬ng lai, lµ no Êm, lµ b·i
ng« ven s«ng, vên rau mít m¾t, lµ "c©y trång trªn b·i". Yªu quª h¬ng
lµm sao chÝnh lµ ®©y, lµng quª ven s«ng víi bê b·i xanh t¬i, n¬i ®ã chiÒu
chiÒu cã nh÷ng c« g¸i g¸nh níc tíi rau, nh÷ng chµng trai vun trång hoa
tr¸i, lµ n¬i hß hÑn løa ®«i khi ®ªm ®Õn tr¨ng lªn, bao chuyÖn t×nh say ®¾m cña
trai g¸i lµng quª víi nh÷ng yªu th¬ng, hên dçi, nh÷ng chuyÕn ®ß ®Çy sang
s«ng, cÆp bÕn vµ nh÷ng ngêi lì ®ß ®ªm khuya thÊp thÓnh tiÕng gäi khµn da diÕt
®Õn nao lßng lµm nghiªng ng¶ c¶ v¹t s«ng. ThÕ råi b×nh minh lªn, nh÷ng tia n¾ng
xanh tíi trªn bê b·i phï sa, chît vôt ngang trêi mét con s¸o sang s«ng, tiÕng
sãng vç bê kh¾c kho¶i nh chia sÎ nçi buån c« ®¬n cña ngêi trai lµng võa
tiÔn ngêi yªu m×nh lªn "xe hoa" qua s«ng kÕt duyªn míi.
Dßng s«ng quª xanh ®Õn
b¸t ng¸t nghÜa t×nh, s«ng cho c¸ t«m, s«ng cho níc m¸t tíi kh¾p ruéng ®ång ®Ó
mçi mïa thu ho¹ch béi thu. ¤i chao! mïi th¬m cña lóa míi, cña r¬m quª sao tha
thiÕt thÕ, ®Õn kh«ng thÓ nµo t¶ næi, cø vêi vîi, xao xuyÕn, nao lßng "Lóa
gÆt råi, cßn ®Ó l¹i r¬m th¬m". NhiÒu ngêi xa quª dÉu cã cuéc sèng sung
tóc, no ®ñ n¬i thÞ thµnh, nhng nhí vÒ dßng s«ng, ®ång lóa, ®êng th«n víi mïi
th¬m cña lóa míi, cña r¬m th¬m ch¾c r»ng kh«ng khái ch¹nh lßng, nh÷ng kû niÖm xa,
nh÷ng nçi nhí l¹i ïa vÒ ®Õn øa níc m¾t, s«ng ¬i!
Quª h¬ng cña Nh¹c sü
NguyÔn Träng T¹o vµ nhµ th¬ Lª Huy MËu ch¾c còng c¹nh mét dßng s«ng, nªn ca
khóc "Khóc h¸t s«ng quª" cña c¸c «ng lµm l¾ng ®éng bao tr¸i tim ngêi
xa quª, giai ®iÖu mît mµ nh dßng ch¶y s«ng quª, dÉu cã "chíp bÓ ma
nguån" nh÷ng vÉn lai l¸ng t×nh ngêi ®Êt mÑ, quª cha. Tõng nèt nh¹c bay
bæng ©n t×nh, ©m hëng lan to¶ vµ ngÊm ®Ém vµo lßng ngêi. Ca tõ rÊt hiÖn ®¹i
nhng gÇn gñi qu¸, th©n th¬ng qu¸, da diÕt qu¸. "¤i con s«ng quª d¹t
dµo nh t×nh
mÑ", ®Õn h¹t phï xa còng lµm ta nuèi tiÕc, ngän giã heo may sao ®Ñp ®Õn v«
ngÇn, ®Ó cho em yªu cã ®«i m¸ öng hång "H¬ng vÞ heo may trªn m¸ em
hång". Ca tõ ®¾t ®Õn thÕ lµ cïng, tÊt c¶ gi¶n dÞ th«n quª nhng cã giai
®iÖu nµo, lêi ca nµo mµ kh«ng lµm say ®¾m lßng ngêi, nã cø th¨ng hoa, cø day
røt, cø vêi vîi, cø man m¸c ®Õn ngÈn ng¬ råi ngÊm s©u ®Õn tËn ®¸y lßng. Nghe
mét lÇn kh«ng thÓ nµo quªn, nghe nhiÒu lÇn thµnh ra nçi nhí, thuéc lêi råi nh
thÊy bãng h×nh m×nh trong ®ã. Vµ råi ¸y n¸y, ®øng ngåi kh«ng yªn nghÜ r»ng ®·
lµm ®îc g× cho mÑ cha, ®ãng gãp ®îc g× cho quª h¬ng, ®Êt níc. ChØ ngÇn
Êy th«i còng ®ñ lµm lßng ta quÆn ®au, nhøc nhèi. Bµi ca nh lêi nh¾n göi thóc
giôc ©n t×nh, nh¾c nhë chóng ta, ai còng cã thÓ quªn ®i nhiÒu thø nhng t×nh
yªu quª h¬ng ®Êt níc th× ®õng bao giê quªn. S«ng nh nghÜa mÑ, s«ng nh
t×nh cha, s«ng nh t×nh yªu ®Êt níc; nghÜa mÑ réng lín bao la, t×nh cha réng
dµi v« tËn, ®Êt níc ngµn ®êi bao dung.
Lêi ca mît mµ
s©u l¾ng cña ca sü Anh Th¬, ca sü Minh Ph¬ng vµ cña ngêi lÝnh Lôc qu©n ®Ó
cho dßng s«ng cø ch¶y m·i, ch¶y hoµi nh
lßng mÑ bao la "Mét dßng xanh ch¶y m·i ®Õn v« cïng". Yªu biÕt mÊy
"Khóc h¸t s«ng quª" ®· cho ngêi lÝnh mét khóc tù t×nh, mét kû niÖm
d»n lßng theo n¨m th¸ng.
CHƠI VƠI !
Truyện
ngắn
Nàng
có đôi mắt đẹp, người ta nhớ đến nàng chính là nhờ đôi mắt biết nói ấy. Nhìn
vào mắt nàng, các chàng trai như thấy nàng đang nói với mình điều gì, những tâm
sự về cuộc đời riêng tư của nàng hay là kỷ niệm về một thời thiếu nữ ngây thơ
trong trắng trên ghế giảng đường của trường đại học. Ánh mắt của nàng làm xao
xuyến bao trái tim các chàng trai. Mỗi buổi sáng đến cơ quan có nàng bầu không
khí như ấm cúng hơn, thoải mái hơn. Nàng bước vào phòng làm việc, mùi thơm và
gió mát như ùa theo. Đôi bàn tay nàng với những ngón búp măng, nõn nà múa trên
bàn phím triết xuất ra những trang tài liệu rất cần cho nhiệm vụ của cơ quan.
Nàng làm việc say mê, nhiệt tình và có chất lượng. Nàng xinh sắn và thông minh,
giao tiếp có duyên nên ai cũng mến. Sức hút của nàng đối với phái mày dâu rất
khá, ban đầu chỉ là cảm tình, ngưỡng mộ, nhưng sau đó quý nàng, thầm yêu trộm
nhớ về nàng. Người ta đi qua, đi lại ngắm nàng, nhìn trộm nàng một chút, sững
sờ khi bắt gặp ánh mắt của nàng ban tặng. Ai đó được hưởng tý chút nụ cười của
nàng quả là điều may mắn.
Nhà
nàng cách nơi làm việc của cơ quan khá xa, một ngôi nhà hai tầng toạ lạc trên
một quả đồi thấp rất đẹp, xung quanh cây cối xanh tươi và một khoảng sân rộng
chứa đầy ánh mặt trời xanh biếc. Nàng đã có chồng và con hạnh phúc. Anh ta yêu
nàng lắm, mỗi buổi đi làm nàng thường mặc chiếc váy lửng sặc sỡ mầu hoa, lộ rõ
đôi chân trần trắng muốt. Nàng ngồi trên chiếc xe ô tô do chồng làm tài xế đưa
nàng đến cơ quan, chờ cho nàng khuất hẳn sau cánh cửa phòng làm việc xong chiếc
xe mới quay đầu đi nơi khác. Tám giờ vàng ngọc nàng chăm chỉ, cặm cụi hoàn
thành các công việc được giao. Là người thông minh, có hiểu biết xã hội rộng,
nàng nắm chắc kiến thức chuyên môn, thành thạo vi tính, biết đôi chút Tiếng
Anh, am hiểu lịch sử "Đông tây kim cổ" nên nàng nói chuỵện hấp dẫn và
lôi cuốn. Khi nàng cất tiếng nói đôi môi
hình hạt lúa của nàng như ngậm tia nắng trời phát ra thứ âm thanh dịu nhẹ, dễ
nghe. Cách nói của nàng như tâm sự với người đối diện. Rất muốn ít tiếp xúc với
mọi người để tập trung cho công việc, nhưng trong cơ quan cánh mày râu vẫn tìm
mọi lý do để trêu chọc nàng, có anh gặp nàng chỉ lúng túng dăm ba câu chẳng có
đầu, có cuối. Nàng biết đó là cái cớ để họ tiếp cận nàng, lâu dần nàng quen với
điều đó và thấy rất vui. Nhìn ánh mắt của mọi người nàng thấy họ tôn vinh,
ngưỡng mộ mình. Tuy vậy, chỉ về đến nhà là nàng thích nhất, con trai của nàng
chạy ra đón, sách túi, cất mũ giúp mẹ, nàng cảm thấy hạnh phúc quá chừng. Nàng
nghĩ không có bất kỳ cái gì đổi lại được niềm vui này. Mỗi ngày, gia đình xum
họp sau bữa cơm chiều, con trai ngồi vào bàn học những bài đầu tiên của chương
trình lớp một thì hai vợ chồng nàng ngồi xem chương trình thời sự trên ti vi.
Cuộc sống gia đình công chức của nàng quả là hết sức tươi đẹp trôi đi trong
tình thân ái của bà con xóm giềng lân cận.
Ở
phòng làm việc kế bên xuất hiện một chàng trai mới tốt nghiệp đại học về cơ
quan công tác. Cậu ta tên là Lợi trông bộ dạng nhanh nhẹn và tháo vát. Mới vào
nghề, nên Lợi chưa thạo việc văn phòng, thỉnh thoảng lại sang phòng nàng hỏi đủ
thứ việc. Thông cảm với người mới đến, nàng nhiệt tình giúp đỡ chỉ bảo. Càng
ngày Lợi càng gắn bó với nàng hơn, nhận được công văn cấp trên về sang hỏi nàng
cách thực hiện; chuẩn bị xây dựng kế hoạch mới sang hỏi nàng nên bắt đầu tư
đâu; hoàn thành một văn bản sang hỏi nàng như thế đã được chưa và đề nghị nàng
cho ý đóng góp đúng sai. Ngày nối ngày hai chị em quấn quýt bên nhau, giúp nhau
hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao. Lợi được sự giúp đỡ của nàng nên tiếp cận
công việc nhanh, việc làm hiệu quả. Thủ trưởng cơ quan tin tưởng vào cậu ta,
chỉ một thời gian ngắn Lợi đã trở thành nhân viên chính thức của cơ quan, đóng
vai trò quan trọng của bộ phận kế hoạch. Lợi rất biết ơn nàng, nhiều lần cậu ta
mua quà tặng và cảm ơn nhưng nàng không nhận. Điều đó lại càng làm cho Lợi
ngưỡng mộ nàng hơn, mọi việc lớn nhỏ Lợi vẫn nhờ nàng cố vấn. Lợi quý mến nàng
thật sự, nàng có vấn đề gì cần sự giúp đỡ, Lợi xung phong làm giúp. Hai chị em
thân thiết với nhau như người nhà, Lợi có xe máy nên tình nguyện đưa nàng đi về
mỗi buổi, đỡ vất vả cho chồng nàng hơn. Rồi Lợi giúp nàng đưa thằng bé đi học ở
trường tiểu học, thậm chí đưa nàng đi siêu thị sắm hàng hoá vật dụng gia đình,
may quần áo trang phục. Mỗi khi mua được chiếc áo đẹp, mặc vào nàng nhờ Lợi
ngắm xem mình mặc có đẹp không? Cứ thế dần dần Lợi trở thành một phần quan
trọng trong cuộc sống đời thường của nàng. Lợi coi nàng như sư phụ, như người
chị của mình, coi gia đình nàng như gia đình mình, nàng coi Lợi như em trai
vậy; mọi vấn đề trong cuộc sống, trong sinh hoạt chẳng cần giữ ý gì cả. Mọi
người trong cơ quan ai cũng cảm phục trước tình cảm của họ.
Nàng
mặc một chiếc áo sơ mi trắng, cổ rộng, eo thắt làm cho bộ ngực tròn căng, nhô
cao, một mảng rộng phía trên trắng ngần lộ rõ, gợi cảm, đúng là "Gái một
con trong mòn con mắt". Buổi trưa, nhà xa nàng không về, biết Lợi đang gấp
rút hoàn thành bản công văn trình thủ trưởng cơ quan. Cửa mở, nàng đến bên Lợi,
từ phía sau lưng, nàng cúi xuống sửa giúp bản kế hoạch trên máy vi tính giúp
Lợi. Đôi tay của nàng thoăn thoát gõ bàn phím, nhấc chuột điều chỉnh máy rất
thành thạo. Thỉnh thoảng thân thể của nàng chạm khẽ vào vai Lợi, như bị điện
giật, Lợi nhẹ tránh, nàng cũng không để ý chỉ chú ý sửa văn bản. Lợi cố tình
làm ngơ nhưng bản năng của một cậu con trai chưa vợ cứ trỗi dậy. Bầu ngực tròn
của nàng đôi khi tỳ vào khuỷu tay, Lợi cố tránh nhưng trong người cứ thấy rạo
rực cả lên. Từ hôm đó, Lợi hay để ý đến nàng, mọi hành động giúp đỡ lẫn nhau
không tự nhiên như trước nữa. Lợi thấy thích nàng, vẫn những lần đưa đón nàng
đến cơ quan, đưa con nàng đi học thay chồng. Tình cảm của hai chị em, một người
phụ nữ đã có con và một chàng trai chưa vợ thì có gì mà phải câu nệ, phải giữ
gìn, đó là tình cảm chị em kia mà, nàng nghĩ như vậy. Nhưng mà gần đây nàng có
cảm nhận mơ hồ là Lợi thích ngắm nhìn nàng. Khi được đóng góp về cách ăn mặc
của nàng, Lợi cho rằng nằng mặc áo chẽn, hở cổ sẽ đẹp hơn. Nàng không nghĩ xấu
về Lợi vì nàng biết rằng tuy mình đã có chồng con nhưng vẫn được các chàng trai
chú ý. Đến như Lợi một sinh viên mới tốt nghiệp đại học ra trường kiếm đâu
chẳng được một cô vợ sinh đẹp như mộng mà vẫn còn thích ngắm nhìn nàng nữa là.
Thôi cứ để cho cậu ta ngắm, cũng tốt vì mỗi lần cậu ta nhìn nàng là một lần
kiểm nghiệm tính hấp dẫn của thân thể mình với cánh con trai. Không sao cả, là
phụ nữ nếu không được người đàn ông nào để ý thì còn có ý nghĩa gì, chán chết.
Một
lần khác, trong giờ nghỉ trưa, khu làm việc
vắng vẻ, chỉ còn hai chị em nàng ở lại hoàn thành nốt phần việc cuối cùng của
bản kế hoạch. Lợi đọc bản thảo cho nàng soát, mệt và buồn ngủ Lợi tựa vào vai
nàng từ từ thiếp đi, hơi thở nóng hổi của Lợi phả vào cổ nàng làm nàng thổn
thức. Cả nể, nàng để im, Lợi lơ mơ ngủ, một mùi thơm của da thị đàn bà xộc vào
thị giác làm cho Lợi liều lĩnh, đôi tay cứ thế lần mò, khám phá công trình
tuyệt mĩ của tự nhiên. Thân thể hừng hực của người con trai chưa vợ xiết chặt.
Nàng từ từ ngả mình trên ghế tựa, hai cặp môi tìm đến với nhau, Lợi như người
đi trên sa mạc khát nước, được thưởng thức thứ nước ngọt có ga, Lợi hối hả uống
ừng ực cho đã cơn khát. Con trai chưa vợ có khác, hối hả tìm, hối hả khám phá,
hối hả thưởng thức, sức mạnh của tuổi trẻ làm cho nàng không thể rứt ra được,
nàng như tan biến trong Lợi, dâng hiến cho Lợi mà không hề tính toán. Được đà,
Lợi cứ thế tiến sâu vào sự khoái cảm đầu đời của mình một cách bản năng. Thưởng
thức trái cấm xong, Lợi như bừng tỉnh, giật mình hoảng sợ, giữa ban trưa sợ
người khác nhìn thấy, sợ thân phận của mình là em sao dám đụng vào sự thiêng
liêng của chị. Nhìn ánh mắt thông cảm và tha thứ của nàng, Lợi thấy yên tâm.
-
Chị bắt đền em đấy, chị ngủ quên thế mà em lại dám...!
-
Em, em không dám, tự nó... đấy chứ!
-
Chết rồi cửa vẫn mở, thế mà em liều thật ?
-
Khổ quá, chị ơi, em không cưỡng nổi. Từ nay em xin chừa.
-
Chị không cho chừa đâu nhé! Thôi về phòng đi, sắp đến giờ làm việc buổi chiều
rồi đấy. Trưa mai ở lại giúp chị hoàn thành nốt văn bản nhé.
Lợi
về phòng lại việc mà người cứ lâng lâng. Từ hôm đó trở đi hình ảnh nàng cứ lung
linh trước mắt Lợi. Tối về trong khu tập thể, trên chiếc giường cá nhân Lợi cứ
thổn thức mãi, thân thể đầy đặn của nàng, hơi thở nóng hổi, bộ ngực phập phồng,
làn môi ngọt lịm, đôi mắt gợi cảm của nàng mới đẹp làm sao, Lợi cứ ngất ngây
không tài nào ngủ được. Hay là mình yêu rồi nhỉ? Nàng đã có chồng con, làm sao
có thể yêu được khi nàng được nữa. Trai chưa vợ lấy gái đã có chồng có được không?
Không bao giờ có sự ngược đời như thế phải không? Lợi lẩm bẩm cố quên đi, nhưng
hình ảnh nàng vẫn cứ lung linh, chỉ mong sao trời chóng sáng để đỡ nghĩ về
nàng. Ngày tháng thấm thoát trôi qua, Lợi và nàng quấn quýt bên nhau, người
ngoài tưởng như hai chị em kết nghĩa, nhưng thực tế hai người cứ vụng trộm gặp
nhau vào những buổi trưa cơ quan vắng vẻ, rồi họ sống với nhau những phút giây
vợ chồng vội vã như vậy. Càng vụng trộm họ lại càng thiếu thốn, càng khát nhau
như ruộng hạn khát trời mưa.
Hôm
ấy, Lợi đưa nàng vào nhà nghỉ ở thành phố, sống những giây phút vợ chồng. Không
úp mở, Lợi đổi cách xưng hô với nàng.
-
Thôi em làm vợ anh nhé!
- Có mà trời xập, gái có con lại lấy một trai tơ
chưa vợ bao giờ, thôi bỏ cái ý định hão huyền ấy đi, để thế cho đẹp. Nàng khẳng
định như vậy.
-
Dù thế nào anh cũng cứ muốn lấy em, không có em anh không lấy vợ nữa, không có
em anh sống chẳng có ý nghĩa gì.
-
Làm thế nào để lấy anh được, khi em đã có chồng? Nàng cũng đổi cách xưng hô và
hỏi lại như vậy.
-
Có chồng thì mặc có chồng, anh vẫn cứ lấy em làm vợ.
-
Thật không?
-
Thật đấy, em yêu.
-
Đùa, không bao giờ có điều ấy, con của em để đi đâu?
-
Em là vợ anh, thì con em cũng là con anh.
-
Thế phải ly dị chồng à?
-
Đúng đấy, em ly dị chồng xong, anh sẽ cưới em liền.
*
Cánh
cửa phòng nghỉ bật mở, Lợi và nàng lồm cồm bò dậy, không thể tin nổi vào mắt
mình, phía cửa mở là chồng nàng và một người đàn ông cao lớn hùng hổ xông vào
giơ tay tát Lợi. Nàng lao ra che và đỡ cho Lợi khỏi bị cái tát trời giáng đó.
Chồng nàng dừng tay và hết sức kinh ngạc khi thấy vợ mình dám đỡ đòn cho tình
địch. Chàng ỉu sìu thất vọng không thốt nên lời, đành ra hiệu cho người bạn
cùng đi lôi tuột nàng ra xe chở về gia đình mình, để lại Lợi đứng trơ như khúc
gỗ, ngượng ngùng thu dọn đồ đạc, trả tiền phòng và lầm lũi trở về cơ quan công
tác chờ đợi một tai vạ sẽ ập xuống vào đầu mình. Nhưng sau đó mọi việc rơi vào
im lặng không hề có điều tiếng gì xảy ra, Lợi thở phào nhẽ nhõm, đau đớn và suy
nghĩ "có lẽ từ nay mình sẽ mất nàng, sự việc bại lộ như thế, còn mong ước
có nàng sao được". Nàng xin nghỉ phép một tháng không đến cơ quan. Lợi
thấy nhớ nàng quá, những ngày tốt đẹp vừa qua, sao mà êm ái, nhẹ nhàng, dễ chịu
đến thế, nó như liều thuốc gây nghiện làm cho Lợi không tài nào quên được. Lợi
như muốn ngay lúc này được ào đến nhà nàng, xem nàng sống ra sao, chồng nàng
đối xử với nàng có tệ lắm không. Nếu nàng đồng ý, Lợi sẽ cùng nàng trốn nhà cao
chạy, xa bay đến một vùng đất xa xôi nào đó sống cuộc sống tự do và hưởng thụ
một tình yêu nòng ấm, thiên đường của hai người.
*
Nàng chỉ ngồi không nói, chồng nàng
thẫn thờ đi lại, có lúc như muốn gầm lên, có lúc lại dịu dàng thỏ thẻ. Chàng
thấy mình bị phản bội và vừa mất đi một
tài sản vô cùng quý báu trên đời này chẳng gì bù đắp được. Với tội lỗi của nàng
theo tập quán Việt Nam ,
đủ điều kiện để chàng chia tay mà không hề vương vấn, nhưng còn con trai và gia
đình hạnh phúc sao đành. Tình cảnh lúc này chàng chẳng dám làm gì cả, sau những
ngày im lặng không nói năng gì, cuối cùng chồng nàng đề nghị.
-
Bây giờ em có cần gia đình này nữa không? Em đã phản bội anh nhưng vì con anh
cho qua tất cả.
-
Tuỳ anh, mọi việc anh đã biết, nếu anh không chấp nhận, em đành phải chia tay.
Còn nếu anh tha thứ, em vẫn mãi là mẹ của con- nàng nhỏ nhẹ.
Thời
gian im lặng khá lâu, cuối cùng chồng nàng lên tiếng.
-
Thôi được, em phải hứa là không bao giờ được phản bội anh nữa. Em nên biết điều
để sống.
- Em đồng ý, cũng mong anh từ nay đừng bao giờ
nhắc lại chuyện cũ nữa nhé.
Hết
kỳ nghỉ phép, chiếc xe ô tô của chồng lại đưa nàng đến công sở làm việc. Người
ta lại thấy gia đình nàng hạnh phúc, chồng quan tâm, chăm lo đến mọi hoạt động
đời sống, công tác của nàng. Nhiều người trong cơ quan, nhìn thấy cảnh ấy thèm
muốn có được cuộc sống hạnh phúc như vậy. Vì nàng nghỉ phép dài ngày, trong cơ
quan cũng có một vài tin đồn dị nghị mong manh không tốt về nàng, nhưng thấy
cảnh hạnh phúc của vợ chồng nàng, mọi suy nghĩ xấu về dần dần không còn nữa.
Công
việc nhiều, cả tháng nghỉ phép bị ùn lại, nàng ra sức làm cho kịp với tiến độ và
nhiệm vụ cấp trên giao. Có hôm hết giờ, chưa hết việc, chồng nàng chờ đón cả
tiếng đồng hồ mà nàng vẫn chưa rời khỏi máy vi tính. Nhiều lần như vậy, nàng
đành phải ở lại cả buổi trưa để làm việc như trước kia. Chính những buổi trưa chết tiệt ấy đã làm cho nàng khó
giữ được mình, nàng ngồi một mình đánh máy, Lợi đến từ lâu, đứng phía sau ngắm
cái cổ trắng nuốt của nàng, rồi bạo dạn đặt lên đó nụ hôn nóng hổi, nàng quay
lại tỏ vẻ không bẳng lòng.
-
Đừng làm phiền chị nữa em!
-
Anh yêu em, thật sự anh không thể thiếu em được- Lợi thổn thức.
-
Không thể vì tình cảm bồng bột của em mà chị lại đánh đổi cả hạnh phúc gia đình
của mình sao, em hãy dừng lại đi vẫn chưa muộn.
-
Anh yêu em thật lòng mà, anh sẵn sàng đổi cả sự nghiệp để được sống với em, cho
dù năm tháng đó có ít ỏi đến mấy cũng được.
-
Thôi em, hãy đổi lại cách xưng hô đi nhé, chị biết tình yêu "lửa rơm"
của em thì được mấy hôm. Có dám cưới chị làm vợ thật không?
-
Dám chứ, nếu em bỏ chồng, anh sẽ cưới em ngay. Bố mẹ anh đã mua cho anh một
ngôi nhà ở thành phố rồi, em lấy anh đôi ta và con sẽ về đấy để ở.
-
Thôi đừng tán dóc và hão huyền nữa.
-
Anh nói thật đấy. Kiếp này chỉ có em là vợ của anh mà thôi. Nếu không lấy được
em, coi như anh không có vợ.
-
Ai mà tin được lời nói của bọn con trai, nhất là của bọn choai choai.
-
Tình yêu của anh sẽ chứng minh cho em điều đó "không có em bầu trời như
không có nắng, không có em chim trời như không có đôi, không có em đất trời như
vô nghĩa, trên đời này như không có yêu thương".
Vừa
khe khẽ hát, Lợi vừa vít cổ và đặt đôi môi đang khát khao của mình lên đôi môi
tươi thắm của nàng, nàng yên lặng và không phản ứng. Được đà, Lợi vòng tay ôm
nàng đứng dậy, hai cánh tay cường tráng ghì chặt nàng vào lòng và hôn tới tấp
lên môi lên cổ... cả hai từ từ ngả xuống chiếc bàn gần đấy làm tung toé cả đống
tài liệu xuống thềm.
*
Toà
án gọi hai vợ chồng nàng đến.
Toà
tiến hành hoà giải giữa hai người, cố níu lại hạnh phúc gia đình mỏng manh của
nàng bằng cách thuyết phục nàng hãy vì tương lai của con mà rút lại đơn xin ly
hôn. Nhưng nàng đã quyết định rồi, gửi đơn đến toà án huyện, coi như nàng đã
chính thức từ chối hạnh phúc đó. Quyết định chia tay với chồng, nàng hy vọng
toà sẽ sử cho nàng được nuôi đứa con yêu quý của mình, đổi lại nàng không lấy
bất kỳ một thứ tài sản chung nào của gia đình kể cả ngôi nhà hai tầng và khuân
viên đẹp đẽ do chính tay nàng góp công xây dựng. Biết nàng kiên quyết từ bỏ
hạnh phúc mà bấy lâu nay anh cố níu kéo, chồng nàng miễn cưỡng chấp nhận sự ly
tán. Toà xử cho chồng nàng được quyền nuôi đứa con trai vì cháu đã lớn. Rời
khỏi toà án, nàng vội vã về nhà, nhìn thấy đứa con yêu quý của mình, nàng không
thể nào ngăn nổi nước mắt, nàng khóc không hiểu vì phải xa con. Thấy mẹ khóc,
tuy không hiểu vì sao nhưng nó xà vào lòng mẹ khóc tức tửi, đâu biết rằng gia
đình hạnh phúc của nó từ nay san đàn, xẻ nghé.
-
Nín đi con trai của mẹ, từ nay con phải ngoan nhiều hơn nhé, buổi sáng con phải
dậy xớm để đi học, mẹ không được gọi con nữa đâu.
-
Sao mẹ lại khóc. Con không thích mẹ khóc bao giờ.
-
Từ hôm nay mẹ mãi xa con,hàng ngày con phải tự tắm rửa và lo lấy mọi việc cho
bản thân con nhé.
-
Con không cho mẹ đi đâu cả. Mẹ phải ở nhà với con.
-
Muộn rồi con ạ, xa mẹ con có nhớ không?
-
Con yêu mẹ lắm! Làm sao mà mẹ không ở nhà nữa. Có phải ai bắt nạt mẹ, khi nào
con lớn con sẽ đánh chết họ.
-
Thôi để mẹ vào nhà chuẩn bị đồ đạc, tý nữa chú Lợi sẽ đến đón mẹ đi.
-
Không được, con không cho ai đón mẹ cả, mẹ phải ở nhà với bố và con.
Nàng
gạt nước mắt, buông con ra vội vã vào nhà chuẩn bị hành trang.
*
Chiếc
xe tắc xi bốn chỗ đưa nàng xuôi về thành phố, nàng đến ở nhờ nhà chị gái, chờ
một thời gian nữa Lợi đến cưới nàng và đưa nàng về nhà như lời Lợi đã hứa. Nàng
xin thôi việc ở cơ quan cũ, chờ xin việc mới ở thành phố. Mọi vui buồn hạnh
phúc nàng gửi lại nơi tỉnh lẻ để đến với Lợi giữa phồn hoa đô thị. Cũng vì quan
hệ không lành mạnh giữa Lợi và nàng nên anh ta bị kỷ luật không được làm ở
phòng kế hoạch, phải đến làm việc ở một tỉnh vùng sâu, vùng xa. Từ đó Lợi ít có
điều kiện về thăm và chăm sóc nàng như trước. Mọi dự định sẽ cưới nàng sau khi
ly hôn dần dần khó trở thành hiện thực. Giờ đây, biết được mối tình ngang trái
của nàng và Lợi, gia đình anh ta ra sức ngăn cản. Họ tìm mọi cách để không cho
Lợi có điều kiện gặp nàng, "Ai đời trai tơ chưa vợ lại yêu và lấy người
đàn bà đã có con và bị chồng ly dị" - người ta nói như vậy. Ngôi nhà ở
thành phố dự định cho Lợi khi cưới vợ cũng bị thu lại. Mọi người thân không có
ai ủng hộ cuộc hôn nhân giữa Lợi và nàng. Lợi đứng trước rất nhiều sức ép cả về
tinh thần và vật chất, không thể nào giữ được mối quan hệ và tình cảm thắm
thiết với nàng như trước nữa. Nguy cơ tan vỡ mối tình với Lợi đã hiện ra trước
mắt.
Nàng
bâng khuâng trước hiện thực phủ phàng, Lợi chưa phản bội nàng, nhưng mọi điều
kiện để đến với nàng hầu như bế tắc. Nếu lấy nàng, về thành phố sống Lợi sẽ mất
việc, trong khi đó nàng chưa xin được việc làm, cuộc sống sẽ ra sao khi không
có tiền, có nhà. Tự nhiên nàng thấy chơi vơi. Nàng giật mình nhận ra mình đã
ngoài 30 tuổi, còn Lợi thì trẻ quá. Hạnh phúc liệu có đến được với nàng không?
nếu có chắc cũng không thể bền vững được. Nàng tự trách mình sao lại mù quáng
trước tình yêu ngang trái thế. Tại sao mình không nghĩ rằng tình yêu "lửa
rơm" của Lợi sẽ xớm tắt lịm. Nàng thật sự thấy chơi vơi.
Tiếng khóc của đứa con trai yêu dấu văng vẳng, làm
tim nàng đau nhói.
Tháng 11-2009
HẠT MUỐI VÀ BIỂN CẢ
Hạt muối nhỏ nhoi giữa lòng biển cả, tan biến đi khi
mỗi đợt sóng triều dâng, chính điều đó góp phần làm cho biển mặn mòi, ấm áp.
Hạt muốn vẫn ngàn đời sinh ra từ biển, được biển nuôi dưỡng, chở che và nhọc
nhằn, vần vũ cùng với những con sóng tung bọt trắng ngần. Trăm con sông đều đổ
vào biển cả, nhưng chỉ khi về với biển nước mới được hưởng sự mặn mòi, sông góp
nước cho biển, nhưng muối thì phải tự biển sinh ra. Không có muối sao gọi là
biển, biển mênh mông nhường ấy sẽ là vô nghĩa khi nước nhạt phèo. Từng hạt muối
nhỏ nhoi tạo nên tính chất của biển cả. Từng con thuyền đánh cá đi về đều tự
hào có biển, con thuyền điểm xuyết cho biển đẹp hơn, nhưng muối và nước sẽ cấu
thành biển cả. Thiên nhiên tự hào có biển, con người lại rất cần muối và nước
cho cuộc sống.
Tôi đến với nghề Tuyên
huấn cũng giống như hạt muối nhỏ nhoi góp sức mình vào lòng biển cả. Biển mênh
mông là thế, hạt muối tôi bé nhỏ biết nhường nào, nhưng những con thuyền và
cánh hải âu trên biển thì không thể xa rời biển thân yêu và hạt muối tôi cũng
góp sức nâng cánh chim thân yêu và đẩy thuyền đi trong mỗi sớm mỗi chiều.
Thủa học sinh, hai từ
Tuyên huấn tôi nghe xa vời vợi, nhưng tôi ngưỡng mộ bác Tố Hữu- nhà thơ cánh
chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam là Trưởng ban Tuyên huấn Trung
ương thời đó. Cảm nhận của tôi, thơ có nghĩa là bác Tố Hữu; bác Tố Hữu là nhà
thơ và là nhà Tuyên huấn, tôi thấy yêu thơ và yêu Tuyên huấn. Tình yêu đó được
nhân lên qua năm tháng học hành dưới mái trường XHCN và được đọc thơ Tố Hữu, từ
“Việt Bắc”, “Gió lộng” đến “Việt Nam máu và hoa” rồi “Những nhành xuân” đều in
đậm trong trái tim tôi. Sau này tôi mới hiểu rằng Tuyên huấn đâu chỉ là thơ,
thơ chưa phải là Tuyên huấn. Nhưng con đường tôi đến với Tuyên huấn có một phần
đóng góp của thơ, đó là bài thơ do chính mình sáng tác đọc trước buổi biểu diễn
văn nghệ quần chúng. Đó là một kỷ niệm đẹp và đáng yêu biết mấy của tôi đối với
Ngành Tuyên huấn.
Tôi đi bộ đội từ trước ngày chiến tranh biên giới phía
Bắc nổ ra. Khi “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới” thì đơn vị tôi lên
tầu hành quân ra Bắc, trong đội ngũ điệp trùng của người lính bảo vệ biên cương
có tôi cầm súng, góp thêm sức mạnh chống kẻ thù xâm lăng. Những ngày tháng ở
biên cương tôi càng hiểu thêm nhiều về ý nghĩa của lẽ sống và tình yêu đất
nước, quê hương, tình yêu con người, nỗi trăn trở của những người bảo vệ đất Việt
quê hương. Trong gian khổ hy sinh đều rất cần tiếng hát, tiếng thơ, rất cần
những lời động viên, chính lúc đó chúng tôi nhận được sự quan tâm to lớn của
Đảng, Nhà nước và quê hương nên chúng tôi đã chiến thắng giặc ngoại xâm và
chiến thắng chính mình-đó chính là Tuyên huấn.
Rồi tôi được đi học sỹ
quan để trở thành người cán bộ quân sự của Đảng, tôi tự hào biết mấy, nên đã ra
sức học tập, rèn luyện để được cống hiến tuổi trẻ, sức lực và trí tuệ của mình
vì sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Tốt nghiệp ra trường tôi được làm cán bộ
quản lý giáo dục cấp phân đội của một trường sỹ quan lớn của Quân đội, rồi làm
giảng viên bắn súng bộ binh dạy học viên đào tạo sỹ quan, sau đó tôi được điều
lên làm trợ lý tuyên huấn của Nhà trường. Ôi hai từ Tuyên huấn mới ngày nào còn
nghe xa lạ làm sao mà đến bây giờ đã trở thành hiện thực đối với tôi. Thế là
tôi chập chững bước vào nghề bằng cả niềm say mê nhiệt huyết của con tim, khối
óc của mình. Khi bắt tay vào nghề tôi mới nhận thức được làm Tuyên huấn đâu chỉ
có chăm chỉ, nhiệt tình là được mà còn phải có năng lực, trí tuệ và năng khiếu
thì mới hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Vào nghề, tôi háo hức bắt tay làm
việc, thi đua-khen thưởng nghe ra có vẻ là chỉ mang miềm vui đến cho nhiều
người, nhưng thực tình công việc không hề đơn giản chút nào. Có làm nghề mới
hiểu hết nghề, nhiệm vụ chuyên môn của tôi khi chập chững vào ngành Tuyên huấn
là được làm công tác thi đua khen thưởng. Tôi biết, thi đua khen thưởng là một
nhiệm vụ rất quan trọng, là một bộ phận không thể thiếu được của hoạt động công
tác đảng, công tác chính trị trong quân đội. Trong hoạt động thi đua phải tạo
nên được phong trào đua đuổi vượt lẫn nhau nhưng không phải là ganh đua, là
cạnh tranh mà là thi đua XHCN, thi đua yêu nước, thi đua quyết thắng. Ở nhà trường
đào tạo sỹ quan có làm tốt công tác thi đua khen thưởng thì mới hoàn thành tốt
nhiệm vụ giáo dục-đào tạo được. Suy rộng ra đất nước có phát triển được thì
khen nhiều hơn phạt; Quân đội có mạnh không thì khen thưởng phải nhiều hơn xử
lý kỷ luật. Tôi cũng hiểu rằng nhà lãnh đạo và người chỉ huy giỏi là người biết
sử dụng có hiệu quả công tác thi đua khen thưởng, trong đó thi đua phải có khen
thưởng, mà khen phải đi đôi với thưởng. Tuy nhiên, khen thưởng phải đúng người,
đúng việc, khen sao cho động viên và phát huy được tính tích cực của quần
chúng. Nếu khen thưởng không đúng chẳng những không có tác dụng tích cực mà có
khi lại làm thui chột cả phong trào. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng viết:
“Em có
tài nấu nướng
Anh có tài ngợi
khen”
Tôi làm trợ lý
giúp cho người lãnh đạo, chỉ huy của đơn vị về công tác thi đua khen thưởng,
tôi biết đây là một vinh dự những cũng gặp đầy rẫy những khó khăn phức tạp. Làm
sao để góp phần thúc đẩy phong trào thi đua quyết thắng của đơn vị phát triển
và theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Vì yêu nghề Tuyên huấn nên tôi yêu việc
thi đua khen thưởng và tôi say mê lao vào công việc như một người lính xung
kích trên mặt trận. Có những lúc thăng trầm, có những khi thất bại, những lúc
thành công. Mười mấy năm trong nghề, tôi được hưởng cảm giác nhẹ nhàng thanh
thản khi mình góp được tí chút công sức và trí tuệ thúc đẩy phong trào thi đua
đi lên, cũng có khi buồn thê thảm khi mình chưa làm chọn vẹn một công việc
chuyên môn đáng lẽ ra người trợ lý thi đua khen thưởng phải làm tốt. Cũng giống
như hạt muối đã góp phần làm nên vị mặn cho đại dương bao la, nhưng cũng thật
là chát đắng khi giữa mêng mông nước biếc của biển khơi mà con người không thể
múc lên uống được. Những năm tháng ấy tôi hoà mình vào tập thể, lặng lẽ âm thầm
làm việc, lặng lẽ âm thầm chịu đựng tiếng khen chê. Rồi những kỷ niệm ùa về,
động lại mãi với thời gian, theo suốt cuộc đời, dệt nên những hoa văn điểm thêm
cho nét đẹp của cuộc sống. Tôi vẫn thường tự hào nói với mọi người trong đơn vị
mình là người may mắn, luôn mang niềm vui đến cho nhiều người. Tức là nhiệm vụ
của tôi là làm công tác thi đua khen thưởng, tôi giúp người chỉ huy tổ chức
phong trào thi đua quyết thắng, duy trì phong trào, kiểm tra đôn đốc, rồi theo
dõi tổng hợp khen thương, rà soát, nâng lên đặt xuống kết quả thi đua, bình xét
khen thưởng, soạn thảo các quyết định để người chỉ huy ký khen thưởng và như
vậy nhiều tập thể và cá nhân được khen thưởng, tôi cũng vui lây niềm vui của
họ. Họ thật xứng đáng với những thành tích đã đạt được trong công tác. Tuy nhiên,
một số cá nhân chưa đủ tiêu chuẩn để được khen gặp tôi họ chẳng vui chút nào,
ai cũng cho rằng tại tôi soi mói khuyết điểm của họ, nâng lên đặt xuống, “bới
bèo ra bọ” để tập thể và cá nhân của họ không được khen, tất cả chỉ tại cái anh
trợ lý phụ trách công tác thi đua khen thưởng mà thôi. Tôi cũng tự thấy mình cứ
vướng víu điều gì đó rồi cứ lăn tăn mãi, “bởi xã hội và con người tốt đẹp phải
khen nhiều hơn phạt” kia mà. Trách nhiệm của tôi là người nòng cốt đi xây dựng
phong trào, xây dựng điển hình tiên tiến, để có nhiều “người tốt, việc tốt”.
Trong cuộc sống và công tác, tôi đã làm được đến đâu? Vì vậy, tôi càng phải cố
gắng, càng phải hết mình với công việc, nhưng sức lực nhỏ bé của mình có giới
hạn, tác dụng được đến bao nhiêu tôi chưa có lời giải đáp. Chỉ biết rằng yêu
nghề Tuyên huấn thì phải nặng lòng với nghề, trăn trở với nghề mới tốt lên được
mà thôi. Thế rồi tôi lại tiếp tục bước đi nặng nhọc trên con đường đầy khúc
khuỷu gập nghềnh của nghề ấy. Tôi giống như người đang bơi giữa đại dưong bao la
cần phải không biết mệt mỏi, phải thắng được sóng gió, vượt qua được bão tố
phong ba thì mới đến được bến bờ bình yên và tôi cứ bơi trên dòng nước của nghề
thi đua khen thưởng đến khi tuổi quân, tuổi đời trải dài qua năm tháng.
Cuộc sống không đơn giản chỉ có nói và làm; nói được và làm được là điều
quá tốt. Nghề tuyên huấn là phải nói thật tốt để cho mọi người nghe và làm thật
tốt để cho mọi người theo, điều đó ai cũng hiểu. Nhưng tôi vẫn cứ trăn trở băn
khoăn khi thấy cuộc đời này nhiều cái vẫn chưa thành công, bởi hiệu quả của
công tác thi đua khen thưởng đôi khi còn thấp. Phong trào được phát động liên
tục nhưng thi đua thì ít mà ganh đua thì nhiều, cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đang được các tập thể và cá nhân hưởng ứng
sôi nổi, tuy nhiên học tập đạo đức, tấm gương của Bác thì tốt, nhưng làm theo
được ít lắm, thậm chí có việc còn đi ngược lại với tư tưởng, đạo đức của Người
thì làm sao chúng ta thấy hài lòng và không trăn trở. Thi đua khen thưởng là để
xã hội tốt hơn, để con người hoàn thiện hơn, hướng tới cái tốt, hướng tới cái
“chân, thiện, mỹ” và cũng để xây dựng con người mới XHCN. Đất nước đang trên đà
phát triển, thi đua và cạnh tranh lành mạnh là rất tốt và cần thiết, song cũng
không nên bất chấp tất cả, mỗi người hãy bằng công sức bé nhỏ của mình mà hành
động vì tập thể.
Tôi cũng vậy, Tuyên huấn nói chung và thi đua khen thưởng nói riêng đã
ngấm vào máu của mình, tôi theo nó đi suốt chiều dài năm tháng và cuộc đời
mình, 16 năm gắn bó với nghề, buồn vui trải nghiệm, kỷ niệm đan sen. Nghiệm
lại, với nghề, tôi thấy mình như hạt muối nhỏ nhoi giữa lòng biển cả. Đại dương
chính là mái trường quân sự nơi tôi công tác, là nghề tuyên huấn tôi đã làm
trong những năm tháng qua. Ở đó đã nuôi dưỡng hạt muối tôi tồn tại, không có
đại dương bao la thì làm sao có hạt muối mặn mòi này. Những hạt muối, giọt nước
chúng tôi ngày đêm góp sức nhỏ bé của mình làm nên biển cả. Biển luôn hào phóng
giúp cho đời, nuôi dưỡng chúng tôi, nâng bước, chắp cánh chúng tôi đi. Trong
tôi luôn âm hưởng những vần thơ mà ngày đầu chập chững bước vào nghề tôi đã
đọc.
Và chúng ta
cũng chính là hạt muối
Hạt muối nào cũng mặn, cũng trắng trong
Mái trường ơi,
nếu người là biển cả
Xin ngàn đời vẫn sóng vỗ bao la.
LỰA LỜI
Khi mặt trái
của kinh tế thị trường luồn lách và đang tác động đến từng ngõ xóm, gõ cửa đến
từng nhà, với biết bao ồn ào, náo nhiệt. Thì cuộc sống không đơn giản chỉ đồng
tiền bát gạo mà còn rất nhiều bề bộn, lo toan. Cái được thì rất nhiều, nhưng
cái mất vẫn còn và không ít những điều trăn trở, băn khoăn.
Cuộc
đời, dẫu không cho nhau được gì, cũng cần dành cho nhau những lời nói tốt đẹp,
ngọt ngào, mang đậm chất nhân văn, để cho người đối thoại với mình dễ vừa lòng.
Ôi những câu dân ca Bắc Bộ, những khúc hát quan họ của người xưa sao mà lắng
sâu, mà chứa đựng nhiều ẩn ý đến vậy. Chẳng cần phải nặng lời, chẳng cần nài ép
mà lời muốn nói của mình vẫn được đối phương chấp nhận "Lại đây ăn một
miếng trầu, không ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng". Lời mời như vậy lẽ nào
người được mời lại không đón nhận miếng trầu ấy. Mà miếng trầu tự ngàn xưa
chính là mở đầu của mọi câu chuyên, "Miếng trầu nên duyên, miếng trầu mang
tiếng", khi nhận ăn trầu rồi sẽ sao đây, nhiều hứa hẹn đang chờ phía
trước.
Người
con gái đẹp thời nào cũng vậy đều được các chàng trai chú ý, muốn làm quen, tán
tỉnh. Rồi cũng có khi quá đà thành ra là trêu nghẹo, cản đường, giằng co, đến
nỗi mất cả việc, muộn cả buổi chợ. Vậy thì, những lời nhỏ nhẹ từ đôi môi xinh
xắn của nàng buột ra "Người ơi buông áo em ra, để em đi chợ kẻo mà chợ
trưa". Câu hát cứ nhùng nhằng, nhưng hiệu quả vô cùng, để cho em đi nhé,
nếu không sẽ bị muộn chợ thì còn mua bán được gì, lỡ việc của em ra, tội
nghiệp. Nghe câu hát ấy, người con trai nào mà chẳng chạnh lòng, dẫu không muốn
vẫn phải buông áo em ra, không cản đường nữa, nhường bước cô em, để em đi chợ.
Thế đấy, cần gì phải mắng, phải chửi, phải xô đẩy, phải lườm nguýt mới thoát
khỏi sự trêu ghẹo của cánh trai làng nghịch ngợm.
Dân
ca miền Trung dẫu có thật thà đến "Giận thì giận, mà thương càng thương",
nhưng cuộc sống vẫn cứ đậm đà tình nghĩa. Dù có lao động vất vả, năm nắng mười
mưa nhưng câu ca vẫn còn đọng mãi "Cầu cho trong ấm, ngoài êm" quả là
có ý nghĩa sâu sắc. Ở đâu cũng cần có cuộc sống bình yên để phát triển và cũng
chỉ có bình yên, có "trong ấm, ngoài êm" thì mới phát triển bền vững
được. Người miền Trung mượn câu dân ca "Đi cấy" để nói lên nỗi lòng
của mình. Bởi mảnh đất nhọc nhằn ấy huôn phải hứng chịu sự khắc nghiệt của
thiên nhiên với cái "nắng tháng sáu, bão tháng bảy", chỉ mong sao cho
êm ấm, yên vui trong xóm, ngoài làng là tốt lắm rồi.
"Lời
nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Cách nói, cách
gọi của ông cha thật là giản dị và có ý nghĩa trong cuộc sống. Người miền Nam
thường gọi "cái bát" thành "cái chén"; "cái chén"
thành "cái ly", phải chăng ý tứ của người xưa muốn sự việc "nhỏ
hoá vấn đề" chăng. Bởi cuộc sống thường nhật bao bộn bề, lo toan, kéo theo
những căng thẳng, phiền toái; nhiều sự việc nếu cứ để nguyên sự thật trần trụi
thì chẳng có lợi gì cho cuộc sống, mà có khi lại làm mất lòng nhau. Thì cứ lựa
lời mà "nhỏ hoá vấn đề" đi có tốt hơn không, cái to trở thành cái bé,
cái bé trở thành cái bé hơn chắc chắn sẽ chót lọt tất cả. Nếu mời bàn bè ăn
thêm một "bát cơm", uống thêm một "chén rượu" hoặc một
"cốc rượu" như vậy có thế là nhiều, bạn của mình khó chấp nhận, thì
ta mời bạn ăn thêm một "bát cơm", uống thêm một "ly rượu"
thì chắc bạn mình dễ chấp nhận hơn, vì chỉ một chén, một ly có lẽ không nhiều.
Cuộc
sống đẹp đẽ và phong phú, "chỉ có yêu người thì người mới yêu ta".
Không thủ tiêu đấu tranh, nhưng cũng đừng"quan trọng hoá" vấn đề mà
làm cho cuộc sống thêm phức tạp. Trong công tác vì việc chung cần phải
"phê và tự phê"sâu sắc, nhưng trong sinh hoạt có lẽ nên lựa lời mà
"nhỏ hoá vấn đề" đi, cái gì bỏ
qua được thì bỏ qua, thì cuộc sống sẽ rất mến thương.
Dành cho thiếu nhi:
CHÚ BÒ MỘNG AN AN
Chú ta là con bò mộng cường tráng và khoẻ mạnh, bốn
chân to khoẻ, cơ bắp cuồn cuộn, bước đi vững trãi, bộ móng chẵn của cả 4 chân
tròn đều, khoảng cách vừa phải. Mỗi khi bước đi, chân trước vừa nhấc khỏi mặt
đất là chân sau đã đặt đúng chỗ chân trước đó. Cứ nhìn 4 chân chắc khoẻ của chú
là biết chú ta có sức khoẻ cực tốt, nếu dùng cho việc cày ruộng hoặc kéo xe thì
thật tuyệt vời, chẳng kém gì mấy chiếc công nông ghẻ, chạy réo um cả làng, xả
khói đen mù làm bẩn cả môi trường thôn xóm. Nhìn chú bò mộng An An, người ta
thích nhất là chú có cái bờm lực lưỡng, một ụ thịt gồ cao nhô khỏi bả vai trông
mới kiêu hãnh làm sao; nửa thân hình phía trước của chú bò trông bề thế, cơ bắp
nổi lên từng cục, tạo cho dáng của chú lao hẳn về phía trước với một sức mạnh
tuyệt diệu, có thể kéo cả chiếc xe chở đầy hàng hoá nặng hàng tấn đi băng băng.
Cái đầu to của chú luôn ngẩng cao với đôi mắt sáng và hai hai cánh mũi phập
phồng hắt ra tiếng thở phì phì mỗi khi tức giận hoặc làm việc nặng. Đáng quý
nhất là chú ta có cặp sừng to, cong và nhọn, hai đầu sừng vươn lên cao và cũng
luôn hướng về phía trước như sẵn sàng đâm thẳng vào kẻ thù nếu lều lĩnh gây
chiến với mình. Với cặp sừng hoành tráng như vậy, chú doạ được khối kẻ nhát gan
và yếu bóng vía. Chú có cái mồm gầu giai đến nể sợ, cỏ khô, cỏ tươi chú nhai
tuốt; cám cò, ngô hạt, ngô cây, lúa mới ngậm đồng chú cũng chén được; khi ăn
chú vục tùng cụm cỏ nhai ngon lành, chú ăn tạp nên thân thể càng to khoẻ đồng
nghĩa với sức mạnh của chú càng được nhân lên. Chú có bộ lông vàng tím, phơn
phớt hồng quả là tuyệt đẹp; cụm lông dài ở bờm của chú đen óng, càng nhìn càng
thấy tăng thêm sức mạnh của một chú bò mộng đang tuổi trưởng thành. Mỗi tuổi
chú càng to thêm, khoẻ thêm, hùng dũng thêm, oai vệ thêm, thậm chí là tàn bạo
thêm, có thể nói chú ta là con bò đầu đàn của thôn Thạch Khoán này. Chính vì
vậy, trẻ con trong thôn đã tôn vinh chú, ngưỡng mộ chú và đặt tên cho chú là An
An, cái tên nghe vui vui như tiếng Tầu nhưng cũng là niềm tự hào và tin tưởng
về sự an toàn của đàn bò trong thôn khi có chú đứng đầu. Hình như hiểu được
điều đó, An An luôn tỏ ra xứng đáng khi cần đến sức mạnh của mình để vận chuyển
những khối hàng nặng nề chất trên xe của ông chủ giúp bà con thôn xóm khí cần
thiết. Vào mỗi vụ thu hoạch từng đống lúa, đống khoai chất đầy trên xe nặng
trĩu, chú băng băng kéo về cho mỗi gia đình, tất nhiên tiền công lao động của
chú ông chủ sẽ lĩnh về, một phần để tái sản xuất sức lao động cho chú bằng
những tải cám cò, ngô hạt, ngô cây. Sau mỗi ngày lao động cực nhọc An An được
buộc ở góc vườn chậm dãi thưởng thức những món thức ăn giầu dinh dưỡng mà cậu
chủ mang tới, rồi điềm tĩnh nhắm mắt vờ ngủ. Chú ta chỉ thấy vui và hứng khởi
khi có bày trẻ nhỏ đi học về phốc lên lưng với hai ba đứa trẻ túm bờm, nắm đuôi
tưởng tượng như đang được phi ngựa, giống như xem phim cao bồi miền Tây nước
Mỹ. Cứ thế, từng ngày chú ăn và làm không biết mệt mỏi với bao nhiêu việc. Từ
ngày xe công nông bị cấm, cả thôn Thạch Khoán này vận chuyển hàng hoá gì đều
cần đến chú ta, nhiều tấn hàng đã qua vai chú.
Nhưng bị gò bó mãi trong đôi càng xe chặt chội và
chiếc vai bò cong queo chú cảm thấy bắt đầu bực bội. An An ước mơ mình là một
chú bò đầu đàn trên đồng cỏ thì sướng biết bao. Nếu được thế, chú sẽ là con bò
mộng cai quản cả đồng cỏ mênh mông với một mầu xanh mướt mắt và no ấm trải rộng
đến tận chân trời. Ở đó, An An tha hồ tung tăng bay nhảy, thích ăn thì ăn,
thích chơi thì chơi, thích gặm cỏ thì cúi đầu gặm cỏ, thích thử sức thì húc đầu
vào bờ đất thử sức, mà cỏ tốt trên đồng bằng cái miệng gầu giai của chú mà vục
thì chẳng mấy mà no, mà đầy bụng, rồi tha hồ nhởn nhơ, thư thái. Chú ta ước ao
được ngửa mặt nhìn những cụm mây trắng lang thang trền bầu trờ cao xanh, ngắm
những bìa rừng xa xanh mát mắt, rì rào tiếng gió thổi, nghe vi vu như một điệu
đàn ngàn đời không bao giờ tắt. Trên đồng cỏ An An sẽ được hưởng những tia nắng
mặt trời buổi sáng chiếu xuống tắm cho bộ lông vàng tím, phơn phớt hồng của chú
càng thêm đẹp, được đón từng cơn gió nhẹ mơn man làn da mỗi buổi hoàng hôn tắt
nắng trên đồng. Chú mơ về cuộc sống tự do, không tù túng để được làm chủ bầy
đàn, được chạm đôi sừng to khoẻ và nhọn hoắt của mình đấu với những chú bò mộng
khác trong đàn mỗi khi khó chịu. Chú ta chắc rằng phần thắng sẽ nghiêng về
mình, bởi vì chú là chú bò đầu đàn kia mà. An An nghĩ rằng nếu chú được trở về
tự do trên đồng cỏ thì đôi sừng và chiếc đầu to khoẻ của chú sẽ ủi tung những
gò đất bướng bỉnh nhấp nhô làm vướng mắt trên đồng. Mỗi lần húc vào ụ đất, gò
đất là mỗi lần chú được thử sức với thiên nhiên được mài đôi sừng của mình cho
thêm sắc nhọn, rồi ngẫu hứng chú sẽ tung bốn vó chạy trên đồng cỏ hít thở không
khí trong lành và phóng khoáng của thiên nhiên ban tặng.
Bất chợt, chú trở về thực tại khi ông chủ đến dắt chú
vào đôi càng xe tù túng chuẩn bị cho chuyến vận chuyển hành hoá mới. Chú ể oải
bước theo ông chủ mà vẫn còn tiếc nuối với giấc mơ tự do trên đồng cỏ mà không
bao giờ trở thành hiện thực. Từ đó, chú ta hay bực dọc và giở chứng, nghe theo
lệnh của ông chủ một cách miễn cưỡng, chỉ khổ cho đôi càng xe bằng gỗ thỉnh
thoảng lại bị chú vặc đôi sừng làm sứt sẹo và thiếu thẩm mỹ đi đôi chút. Mỗi
lần kéo xe, An An lại vùng vằng khó chịu, thậm chí dùng cái mồm gầu giai của
mình vít cả bó lúa, rổ khoai chất trên xe xuống nhai ngấu nghiến, rồi giả vờ
quay người đụng chạm làm đổ cả hàng hoá của nhà nông. Chưa hết, chú ta còn cố
tình làm ra vẻ mệt nhọc chằng chịu đi nhanh như trước, số lượng chuyến xe từng
ngày cứ giảm dần, trọng lượng hàng hoá trên xe cũng nhẹ bớt. Thỉnh thoảng chú
còn dùng chiếc đuôi dài cứng của mình quật qua, quật lại vun vút vào mặt, vào
vai ông chủ. Vì quý An An nên ông chủ cũng làm ngơ, thấy chầot vẫn được việc
nên ông chủ luôn nâng niu, chăm sóc chú chu đáo, chẳng khi nào đánh chú ta roi
nào cả. Chỉ có cậu bé con ông chủ là cảm thấy nghi ngờ trước sức mạnh của An An
giảm tụt như vậy, từ đó cậu chủ hay quát mắng và thỉnh thảng lại tặng cho chú
một vài doi vào mông đau điếng, làm chú ta giật thót cả mình. Tuy vậy, chú ta
vẫn cứ phá phách, giận cá chém thớt vục vặc khắp nơi, vào chuồng phá chuồng,
kéo xe vặc xe, gặp đồng loại yếu hơn húc đồng loại, thậm chí còn vặc cả sừng
vào gốc cây làm bật cả vỏ trắng hếu. Sểnh một tí là An An lao vào ruộng lúa,
bãi khoai của nông dân chén bậy, làm mất mặt cả ông chủ. Cậu bé chuộc An An về
vụt cho một trận, xong đâu vẫn vào đấy, hễ không có người chăn dắt là chú ta
lẻn vào phá hoại hoa mầu, đến là khốn khổ với chú. Từ đó tự nhiên trong mắt
người dân của thôn Thạch Khoán chú bò mộng An An mất dần cảm tình với họ, không
ai đặt nhiều hy vọng là chú có thể thay thế được xe công nông đã bị cấm nữa.
Mọi người mong chú hãy dùng sức khoẻ cường tráng của mình phục vụ sản xuất,
giúp đỡ bà con nông dân và cũng là giúp chú có miếng ăn dễ dàng.
HOAN HÔ "TƯ VẤN SỨC KHOẺ"
Cơ quan tổ chức Hội nghị nói chuyện chuyên đề, mời chuyên gia cấp trên
về "Tư vấn sức khoẻ", vợ tôi thuộc thành phần được tham gia, sau khi
dự Hội nghị về thấy vợ phấn khởi hẳn lên, nét mặt có phần "nghiêm
trọng" hơn thường ngày. Mọi công việc lo lắng cho cuộc sống gia đình có
chiều hướng khác hẳn, nhất là vấn đề "chăm sóc sức khoẻ" cho chồng
con là biểu hiện rõ nét nhất. Vì vậy, những sinh hoạt gia đình tất bật hơn, gần
như bị đảo lộn hoàn toàn. Bản thân tôi đang là người tương đối tự do, bỗng
nhiên trở thành người bị cấm đoán và theo dõi nhiều nhất, cấm đoán đến khó chịu
quá mức nhưng vẫn phải chấp hành triệt để.
Buổi
cơm chiều hôm đó, ngồi vào bàn ăn tôi tìm mãi mà không thấy chai rượu nếp cẩm
thường ngày tôi vẫn làm vài chén trước bữa ăn không cánh mà bay, sai con tìm
thế nào cũng chẳng thấy, hỏi vợ vợ bảo không biết, tôi bực mình cáu bẳn với vợ
con, làm cho bữa cơm chiều mất ngon. Xong bữa nàng mới thủ thỉ bảo tôi: Em giấu
chai rượu của anh rồi, Bác sỹ "tư vấn sức khoẻ" căn dặn uống rượu rất
có hại cho sức khoẻ, làm sa sút kinh tế, vợ chồng anh em đánh cãi nhau, tan nát
cửa nhà, nên em cấm anh uống rượu. Ngày hôm sau, khẩu phần ăn của gia đình có
sự thay đổi đến kỳ lạ, trên mâm rau nhiều hơn thịt, cơm nấu ít hẳn đi, mà rau
chẳng xào nấu gì cả, chỉ có món luộc thôi, ngồi vào mâm ăn vài miếng khó nuốt,
tôi cố gắng lắm mới nuốt nổi bát cơm. Nàng nói: Bác sỹ "tư vấn sức
khoẻ" căn dặn chế độ ăn uống thời đại mới phải ăn nhiều rau, giảm thịt cá,
cơm ăn mỗi bữa không quá 2 lưng bát, thức ăn hạn chế đến mức thấp nhất xào với
mỡ, rau luộc là tốt nhất. Thế là từ đó tôi thường xuyên được thưởng thức món
rau luộc trong thực đơn mỗi ngày.
Buổi
chiều, đến giờ tập thể thao, tôi đang định sỏ đôi giầy Adidat vừa mới mua để đi
đánh bóng bàn, vợ vội chạy đến cất ngay "Từ nay anh đi tập thể thao chỉ
cần đi chân đất, không cần đi giầy thì người mới khoẻ được". Bác sỹ
"tư vấn sức khoẻ" căn dặn mỗi ngày con người chúng ta đôi chân phải
được tiếp đất trong khoảng thời gian nhất định để cho âm dương điều hoà. Các
anh đi làm việc nhà nước, giầy dép quần áo là lượt suốt ngày có tiếp đất bao
giờ đâu mà khoẻ mạnh được. Thế là từ hôm đó đôi giầy thể thao mới mua của tôi
đành nằm xếp xó.
Đi
ngủ, vợ tôi nằng nặc bắt quay đầu giường ngược lại với tư thế thường ngày chúng
tôi vẫn nằm, rất khó chịu nhưng là "mệnh lệnh" của nàng tôi đành miễn
cưỡng chấp hành, mặc dù vẫn vùng vằng chút ít, làm cho tối hôm ấy tôi cứ trằn
trọc khó ngủ vì bị thay đổi vị trí "lạ giường". Sáng ngày nàng mới
nhẹ nhàng giải thích: Bác sỹ "tư vấn sức khoẻ" căn dặn giường ngủ
tuyệt đối không được quay đầu phía Bắc, vì theo khoa học dưới tác dụng của lực
từ trường trái đất người nằm ngủ quay đầu phía Bắc không có lợi cho sức khoẻ,
hay bị ốm. Ối giời! thế mà tôi chẳng nhận ra, từ bé đến lớn tôi nằm ngủ có bao
giờ chọn hướng đâu, may mà không bệnh tật gì hết, tôi vẫn mạnh khoẻ, nặng gần
70 kg. Thật là hú vía !
Hoan
hô "Tư vấn sức khoẻ", nhờ đó mà cuộc sống thường ngày tẻ nhạt của tôi
được đổi mới hoàn toàn, trọng lượng cơ thể giảm đi rõ rệt, vòng eo nhỏ lại, bữa
ăn giấc ngủ đơn giản hơn, thoải mái và ngon hơn. Cái quan trọng là tôi thấy
mình được coi trọng, được vợ quan tâm nhiều hơn. Tôi buột miệng "Ôi vợ
muôn năm!".
NHỮNG BÔNG HOA
TẶNG THẦY
Người ta bảo giảng viên và cán bộ quản
lý giáo dục ở các trường học như những người lái đò, cứ mỗi khoá học là một
chuyến đò đưa khách sang sông và thường là khách nhớ người lái đò, chứ mấy khi
người lái đò nhớ khách. Điều đó quả là rất đúng.
Hôm
ấy, bất ngờ Nam Ngạn nhận được một tặng phẩm gồm 20 bông hoa Dơn từ một thành phố du lịch phía Nam mà người ta
thường gọi là "Thành phố Ngàn hoa" gửi ra, nhận món quà, Nam Ngạn rất
trân trọng và cảm động. Càng xúc động hơn khi biết người gửi quà cho mình lại
chính là người học trò, người bạn, người đồng chí cách đây hơn 20 năm cùng đơn
vị.
Ngày ấy, Nam Ngạn và Trương Nho Tuấn ở Đại đội 2,
Tiểu đoàn 1, Trường Sỹ quan Lục quân 1. Tuấn là học viên còn Nam Ngạn là trung
đội trưởng, tuy chức vụ có khác nhau, nhưng hai người có một cuộc sống khá tình
cảm và vất vả, Cuộc đời của người học viên đào tạo sỹ quan và cán bộ phân đội
lúc ấy có khác nhau là mấy. Thời bao cấp, cũng có lúc cơm chưa được no, áo chưa
đủ ấm, lăn lộn thao trường, bãi tập suốt ngày. Cánh trung đội trưởng của Nam
Ngạn cũng vất vả không kém gì học viên, ăn ngủ sát học viên, nên anh em gọi đùa
thân thiết là "học viên năm thứ tư". Nam Ngạn thấu hiểu hoàn cảnh
từng đồng chí trong trung đội. Tuy ai cũng vất vả, gian khổ nhưng rất tích cực
học tập và rèn luyện, Trương Nho Tuấn là một người trong số trên ba chục học
viên thuộc trung đội Nam Ngạn quản lý như thế. Tuấn học khá, rèn luyện tốt nên
giữa năm thứ hai anh đã trở thành đối tượng được kết nạp Đảng, nhưng khi xét
kết nạp, Tuấn chưa đủ điều kiện vì chưa có xác minh lý lịch đành phải hoãn lại,
nhưng Tuấn không nãn chí, anh tiếp tục học tập, rèn luyện tốt, mãi đến năm
cuối, trước khi ra trường, Tuấn mới trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong thời gian chờ xác minh lý lịch của Tuấn, hai người vẫn thường trao đổi,
tâm sự với nhau, Nam Ngạn vừa ở cương vị là đồng chí đồng đội, vừa là người
anh, cấp trên động viên Tuấn cố gắng học tập, để tốt nghiệp ra trường trở thành
người cán bộ chỉ huy giỏi. Thế rồi, ra trường Tuấn về nhận nhiệm vụ ở một quân
đoàn chủ lực đóng quân trên một vị trí chiến lược của Tổ quốc, Nam Ngạn ở lại
trường tiếp tục làm giảng viên rồi trợ lý cơ quan của Nhà trường. Xa nhau hàng
nghìn Km hai người chưa một lần gặp lại nhau, ai vì công việc người đó, nên cái
tên Trương Nho Tuấn cũng phai mờ trong Nam Ngạn theo năm tháng và "những
chuyến đò" nối tiếp nhau chắp cánh cho những ước mơ của bao lớp học viên
bay đi khắp mọi miền Tổ quốc cứ thế sang sông.
Bẵng
đi hơn 20 năm sau, Nam Ngạn nhận được những bông hoa Dơn tươi thắm của người
học trò, khi anh đang là giảng viên của một học viện Quân sự ở phía Nam đất nước. Món quà giá trị vật chất
tuy không lớn, nhưng giá trị tinh thần và tình cảm đồng chí, thầy trò thì thật
là lớn biết bao.
Nam Ngạn nghĩ, những người thầy có công chăm sóc,
vun sới những "mần xanh tương lai tuổi trẻ" thật là hạnh phúc, chính
họ là "những người lái đò" đã góp rất nhiều công sức để đưa những con
thuyền trí tuệ tới bến bờ hạnh phúc. Những người "đi đò" không đơn
giản chỉ là "đi đò"mà ở họ luôn nhớ mãi con đò đã từng đưa đón họ
vượt qua bao thác ghềnh để đến bến bờ của vinh quang, thành đạt.
LỰA LỜI
Khi mặt trái
của kinh tế thị trường luồn lách và đang tác động đến từng ngõ xóm, gõ cửa đến
từng nhà, với biết bao ồn ào, náo nhiệt. Thì cuộc sống không đơn giản chỉ đồng
tiền bát gạo mà còn rất nhiều bề bộn, lo toan. Cái được thì rất nhiều, nhưng
cái mất vẫn còn và không ít những điều trăn trở, băn khoăn.
Cuộc
đời, dẫu không cho nhau được gì, cũng cần dành cho nhau những lời nói tốt đẹp,
ngọt ngào, mang đậm chất nhân văn, để cho người đối thoại với mình dễ vừa lòng.
Ôi những câu dân ca Bắc Bộ, những khúc hát quan họ của người xưa sao mà lắng
sâu, mà chứa đựng nhiều ẩn ý đến vậy. Chẳng cần phải nặng lời, chẳng cần nài ép
mà lời muốn nói của mình vẫn được đối phương chấp nhận "Lại đây ăn một
miếng trầu, không ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng". Lời mời như vậy lẽ nào
người được mời lại không đón nhận miếng trầu ấy. Mà miếng trầu tự ngàn xưa
chính là mở đầu của mọi câu chuyên, "Miếng trầu nên duyên, miếng trầu mang
tiếng", khi nhận ăn trầu rồi sẽ sao đây, nhiều hứa hẹn đang chờ phía
trước.
Người
con gái đẹp thời nào cũng vậy đều được các chàng trai chú ý, muốn làm quen, tán
tỉnh. Rồi cũng có khi quá đà thành ra là trêu nghẹo, cản đường, giằng co, đến
nỗi mất cả việc, muộn cả buổi chợ. Vậy thì, những lời nhỏ nhẹ từ đôi môi xinh
xắn của nàng buột ra "Người ơi buông áo em ra, để em đi chợ kẻo mà chợ
trưa". Câu hát cứ nhùng nhằng, nhưng hiệu quả vô cùng, để cho em đi nhé,
nếu không sẽ bị muộn chợ thì còn mua bán được gì, lỡ việc của em ra, tội
nghiệp. Nghe câu hát ấy, người con trai nào mà chẳng chạnh lòng, dẫu không muốn
vẫn phải buông áo em ra, không cản đường nữa, nhường bước cô em, để em đi chợ.
Thế đấy, cần gì phải mắng, phải chửi, phải xô đẩy, phải lườm nguýt mới thoát
khỏi sự trêu ghẹo của cánh trai làng nghịch ngợm. BỮA CƠM CHIỀU MUỘN
Đến bây giờ, tôi vẫn nhớ như in bữa
cơm chiều muộn ấy. Cũng như bao gia đình nông dân nghèo của mảnh đất miền Trung
những năm tháng khó khăn đó. Nhà tôi chạy ăn từng bữa, sắn khoai chẳng có mà ăn
nói chi đến cơm trắng cá kho. Mẹ tôi tần tảo xớm trưa, mưa nắng ngoài đồng
"bán mặt cho đất, bán lưng cho trời" mà vẫn không đủ ăn. Hạt lúa, củ
khoai quằn mình nuôi lớn 6 chị em chúng tôi trong những năm tháng đói nghèo đó.
Có nghĩa là gia cảnh nhà tôi bần hàn, túng thiếu, ít khi có bữa no. Nhưng có
một kỷ niệm mà tôi nhớ mãi không bao giờ quên những ngày khốn khó. Bữa cơm
chiều đến muộn, nói đúng hơn là hôm đó không có bữa cơm chiều, mà cả nhà tôi
chờ bữa cơm tối. Hôm đó đã hơn 8 giờ 30 tối mà mẹ tôi đi chợ Hoàng (Nga Sơn)
vẫn chưa về, ở nhà hết gạo, mấy bố con chúng tôi chả biết tìm đâu ra gạo để nấu
cơm chiều. Đi vay thì hàng xóm cũng cảnh nghèo như mình, chẳng có gạo mà vay
đành phải đợi mẹ về chợ mà thôi. 7 người trong gia đình tôi đợi mẹ từ lúc chập
chiều đến tối mịt vẫn chưa thấy mẹ về. Bố đưa tôi đi đón mẹ, chúng tôi vượt
quảng đường hơn 3 km đến đoạn đê vòng vẫn không thấy mẹ đâu. Hai bố con ngồi
xuống vệ cỏ bờ đê chờ mẹ, bụng đói lép kẹp, tôi nằm xuống triền đê ngửa mặt lên
trời hóng gió. Mùa hè những ngọn gió nồm nam rất mát thổi từ hướng biển vào làm
tôi khoan khoái, tạm quên đi cơn đói đến cồn cào. Lúc đó tôi chỉ ước gì đón
được mẹ về lục gánh lấy tạm củ khoa lang sống ăn cho đỡ đói lòng mà mãi chẳng
thấy mẹ đâu. Thế rồi tôi ngủ quên trên bờ đê lúc nào chẳng rõ. Tôi mơ thấy mình
lạc vào lạc vào vườn ổi nhà Bác tôi đầy những quả chín vàng. Tôi trèo cây hái
quả và ngấu nghiến ăn cho đỡ cơn đói. Cứ thế tôi trẩy hết quả này đến quả kia cho
vào mồm ăn liên tục. Tôi giơ tay ra phía đầu cành vít lấy một quả ổi to chín
mọng. Chợt cành ổi gãy đôi, tôi rơi từ trên cao xuống đất rợn hết cả người và ú
ớ la to. Cùng lúc đó, tôi giật mình tỉnh giấc đã thấy bàn tay âu yếm của mẹ đỡ
tôi ngồi dậy trên bờ đê. Mẹ tôi bảo "con nói gì trong mơ mà mẹ nghe líu
ríu". Bố tôi gánh hàng chợ giúp mẹ đi về, mẹ đỡ tôi đứng dậy về theo. Tôi
túm gấu áo mẹ lon ton chạy sau, mẹ giúi vào tay tôi miếng bánh đa nướng đã ỉu
xìu để tôi ăn tạm. Về đến nhà, các chị và em tôi đã ngủ, lúc này bố mẹ tôi mới
nhanh chóng nhóm lửa vo gạo nấu nhanh nồi cơm chiều. Khi cơm canh chín đã gần
10 giờ đêm, chị em tôi mới thức giấc ăn bữa cơm chiều muộn nhưng hạnh phúc quá
chừng. Mẹ tôi bưng bát cơm lên, dưới ánh đèn dầu tôi thấy mắt bà ngấn lệ, đôi
dòng nước mắt chảy ra, mẹ tôi kín đáo lau sạch không cho chúng tôi biết mẹ
khóc, rồi nhìn đàn con bé bỏng của mình ăn cơm, chắc lòng bà đau sắt. Tôi là
đứa trẻ tham ăn, đánh vèo một cái đã xơi hết toi hai bát cơm mẹ xới, mẹ xẻ thêm
cơm cho tôi từ bát của bà. Tôi bưng bát cơm định đưa lên miệng ăn tiếp, chợt
nhìn thấy mẹ buông đũa không ăn, quay mặt chùi nước mắt. Tôi hỏi nhỏ "sao
mẹ không ăn nữa". Mẹ nhìn tôi nhỏ nhẹ "mẹ no rồi, các con cứ ăn
đi". Tôi tưởng mẹ ăn no thật rồi, nên bình thản ăn nốt phần cơm mẹ vừa xẻ
cho, đâu có biết rằng mẹ tôi nhịn đói nhường cho tôi thêm khẩu phần của mẹ.
Tuổi thơ của tôi cứ vô tư lớn lên
trong tình yêu thương của cha mẹ và gia đình. Rồi tôi nhập ngũ, lên đường ra
biên giới chặn quân thù phía Bắc. Từ người lính trở thành sĩ quan, trải qua bao
gian khổ, vất vả. Đến nay, cuộc sống của tôi tương đối ổn định, nhớ lại bữa cơm
chiều muộn hôm đó, tôi mới ân hận làm sao. Tuổi trẻ của mình bồng bột quá, đâu
có biết rằng để thêm một miếng cơm cho mình là phải bớt phần của mẹ ! Giờ đây,
cầm nén hương thơm trước mộ phần của mẹ, tôi không thể nào quên bữa cơm chiều
muộn năm ấy mà nước mắt rưng rưng. Tôi lầm rầm khấn trước hương hồn mẹ hãy tha
thứ cho đứa con bé bỏng và ngây thơ của mẹ năm xưa..
Khi
có miếng ăn, cái mặc đủ đầy, sao lại quên đi những ngày đói kém. Cuộc sống hôm
nay, thêm một bát gạo, thêm một đồng tiền vào túi của mình là bớt đi khẩu phần
ăn của bao nhiêu người khác. Tôi vẫn thầm nhủ với chính lòng mình là hãy hiểu
rõ quy luật của tự nhiên "Mọi vật chất đều có tổng số không đổi, nếu bên
này nhiều thì bên kia sẽ ít".
ĐÒ LÈN-CÂY CẦU
MỘT THỜI HUYỀN THOẠI
Thời đó, có một
cây cầu cũng đã tứng hứng chịu hàng chục nghìn tấn bom đạn của quân thù, nhưng
nó vẫn tồn tại và nối mạch giao thông, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng
trong sự nghiệp giải phòng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Đó là cây cầu Đò Lèn
trên Quốc lộ 1A bắc trên sông Lèn (một nhánh của sông Mã). Cách cầu Hàm Rồng 17
km về phía Bắc, cầu Đò Lèn hiên ngang nối hai bờ của huyện Hà Trung và Hậu Lộc
(Thanh Hoá). Cũng giống như cầu Hàm Rồng, cầu Đò lèn là một trọng điểm đánh phá
của máy bay địch, mỗi ngày có hàng chục lượt máy bay đến quần đảo đánh phá, các
trận địa pháo phòng không của ta giăng lưới lửa chống lại quân thù. Trận đầu
mùng 3,4 tháng 4 năm 1965 ngay từ sáng sớm máy bay địch đã ập đến dội bom tới
tấp xuống cầu. Lúc ấy bảo vệ cầu là những khẩu pháo cao xạ 37 ly, 14,5 ly của
bộ đội chủ lực và một số trận địa súng máy phòng không 12,7 ly của dân quân địa
phương, số lượng rất ít nhưng đã chiến đấu rất có hiệu quả. Trận đánh rất ác
liệt xảy ra, máy bay địch, quần đảo, bổ nhào thả bom, bắn rốckét, pháo phòng
không của ta từng loạt trả lời. Có lúc hết đạn, pháo thủ bị thương, dân quân và
thanh niên địa phương của các xã Hà Phong, Hà Ngọc (huyện Hà Trung-Thanh Hoá)
nhanh chóng tiếp đạn cho bộ đội, thay thế các pháo thủ bị thương tiếp tục nổ
súng bắn trả máy bay địch. Trong 2 ngày chiến đấu dũng cảm đó, quân và dân Đò
Lèn đã bắn cháy 4 máy bay phản lực của địch, bảo vệ an toàn cho cây cầu lịch sử
.
Cầu Đò Lèn ở hạ
lưu sông Mã nơi có địa hình bằng phẳng, khó nguỵ trang nên dễ bị địch phát hiện
và tấn công, sau này máy bay địch dùng bom la de đánh xập cầu, nhưng ở đoạn
sông ấy những cây cầu dã chiến tiếp tục được mọc lên giữ vững mạnh máu giao
thông, chi viện sức người sức của cho miền Nam. Chỉ trong khoảng thời gian từ
năm 1965 đến 1972 ở đoạn sông Lèn nơi có cây cầu sắt lịch sử bị máy bay địch
đánh xập ấy đã có 5 cây cầu khác, với các chất liệu và hình thức nghi binh khác
nhauđược mọc lên thay thế. Cầu 2 là cầu phao đêm đêm bộ đội công binh bắc vội
để cho những chuyên xe quân sự sang sông. Cầu 3 là cây cầu gỗ bắc xuyên qua
đoạn sông giữa làng Tương Lạc của tôi, đêm đem những đầu máy hơi nước từ bờ Bắc
sông Lèn đẩy những toa hàng sang bên kia sông cho một đầu máy khác keo đi về
phía Nam .
Cầu 4 sát với cây cầu chính cũng là cây cầu gỗ có đường sắt chạy qua để cho các
đoàn tầu chở hàng qua sông. Cầu 5 là cây cầu treo ở phía thượng lưu nơi có thể
nguỵ trang tốt và bất ngờ để cho các đoàn xe vượt sông khi vắng bóng máy bay
địch. Cầu 6 là cây cầu đường sắt đi vòng lên phái thượng nguồn của dòng sông.
Sáu cây cầu bắc trên sông Lèn giống như 6 con rồng dũng mãnh vươn mình vượt qua
sông Mã oai hùng, đưa những đoàn xe, đoàn tầu vào Nam đánh giặc. Máy bay địch
thường xuyên trinh sát lùng sục, chúng phát hiện ra những cây cầu đó và tập
trung đánh phá, nếu một cây cầu đổ xuống, chỉ vài ngày sau lại có một cây cầu
khác mọc lên, giữ vững huyết mạnh giao thông nối dài ra tiền tuyến. Bảo vệ
những cây cầu là các trận địa pháo phòng không của bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân các làng xã lân cận, tạo thành lưới lửa nhiều tầng, nhiều
lớp đánh trả máy bay địch, quyết tâm bảo vệ cầu. Với câu khẩu hiệu "còn
người là còn trận địa, còn những cây cầu", đã có những cán bộ, chiến sỹ
quân đội và dân quân anh dũng hy sinh trong các trận chiến đấu bắn trả máy bay
địch, tên tuổi của họ có thể bị lãng quên cùng với năm tháng, nhưng họ đã góp
phần viết nên bản hùng ca rực rỡ về cây cầu Đò Lèn anh dũng. Cùng với cây câu
huyền thoại Hàm Rồng, trên huyết mạnh giao thông của con đường quốc lộ 1A năm
xưa có một cây cầu thứ 2 là Đò Lèn anh dũng, Hai cây cầu trên tạo thành những
điểm nhấn đầy ấn tượng trong lịch sử oai hùng của quân và dân Thanh Hoá trong
cuộc kháng chiến thần thánh giải phóng và bảo vệ Tổ Quốc.
Ngày nay, bên
cạnh cây cầu sắt lịch sử, lại có thêm một cây cầu đường bộ bắc song song với
cây cầu sát cũ. Ở đó Cầu Đò Lèn vẫn là huyết mạch giao thông của tuyến đường
Quốc lộ 1A thông suốt Bắc Nam .
CON GÁI SƠN TÂY
Hồi ấy, câu nói “Gái Hà Nội, Bộ đội Sơn Tây” cứ ám ảnh
mãi chúng tôi suốt chặng đường từ đơn vị chiến đấu tận biên giới phía Bắc về
trường sĩ quan đóng ở thị xã Sơn Tây (Hà Tây cũ) để học. Khi chưa đến xứ Đoài,
chúng tôi cứ tưởng ở Sơn Tây chỉ có lính và lính mà thôi. Vì ở đó là “Vùng đất
lính” kia mà, con gái chắc là ít lắm. Từ bé, chúng tôi lại được nghe bập bõm
những câu thơ về con gái xứ Đoài “Con gái Sơn Tây, yếm thủng tày dần; răng đen
hạt nhót, chân đi cù lèo”, rồi “Tóc rễ tre, chải lược bồ cào, sần sùi da cóc, hắc
lào tứ tung, trên đầu chấy rận như sung...”. Muốn tìm một cô người yêu hẳn là
phải xuống Hà Nội mới có, như vậy thì học viên sỹ quan chúng tôi làm gì có thời
gian để đi tìm bạn gái, rồi thì “tình phí” lấy đâu ra, phương tiện đi lại lúc
ấy khó khăn vô cùng. Thế thì có lẽ phải trở về quê nhờ bố mẹ tìm và cưới cho
một cô gái làng làm vợ mà thôi. Với những suy nghĩ mặc cảm và nỗi ám ảnh về con
gái Sơn Tây như vậy, nên giai đoạn là
học viên vì bận học tập, ít được tiếp xúc với bà con nhân dân địa phương trong đó
có các cô gái Sơn Tây chúng tôi chưa hề có cảm tình gì với họ, mà chỉ chăm chú
vào việc học hành, rèn luyện để trở thành người sỹ quan tương lai.
Thế mà! mọi suy nghĩ và tình cảm của chúng tôi bị đảo lộn khi đơn vị đi học tập dã ngoại xa
trường, đóng quân trong nhà dân. Lần đầu tiên chúng tôi được gặp “Cô gái Sơn
Tây”, đó là một cô gái ngang tuổi chúng tôi, hồi ấy khoảng mười chín, đôi mươi.
Cô tên là Dự con gái chủ nhà, đã từng học xong trung cấp y tế đang chờ xin việc
làm. Chúng tôi rất ngỡ ngàng khi thấy cô gái trẻ và có duyên này, tuy ít tuổi
nhưng hiểu biết xã hội khá sâu. Sau mỗi buổi đi huấn luyện về được trò chuyện
với cô, chúng tôi biết cô yêu nghề y và rất mến áo lính. Ước mơ của cô nếu
không xin được việc làm thì sẽ đăng ký đi nghĩa vụ quân sự để được phục vụ
trong quân đội, được mang “mầu xanh áo lính”. Gần cô gái có dịp ngắm em, chúng
tôi thấy tuy là con gái Sơn Tây nhưng em có làn da trắng, tóc dài đến thế, em
nói chuyện có duyên và lém lỉnh, reo vào lòng chúng tôi những rung cảm đầu đời.
Mỗi khi đi học ngoài thao trường về đến nhà trọ được gặp em tươi cười, rót cho
chúng tôi bát nước chè xanh là thấy nhẹ cả người, bao nhiêu mệt nhọc biến đi
đâu hết. Ngày nghỉ, em rủ chúng tôi ra ruộng rỡ khoai giúp gia đình, tối về
quây quần bên bếp lửa vừa ôn bài vừa bóc khoai nướng xì xụp ăn, rồi cười khúc
khích, thật là một kỷ niệm vui, em để lại nhiều ấn tượng với chúng tôi. Từ bữa
đó, cảm giác không đẹp về con gái Sơn Tây đã bay đi đâu mất, chỉ còn lại hình
ảnh tươi rói về em theo chúng tôi đi suốt những ngày tháng trên giảng đường của
trường sỹ quan.
Thời tiết của vùng “đất lính” thật là khắc nghiệt,
đúng là “nắng Sơn Tây, mây Ba Vì”, nhưng con người Sơn Tây thì thật là hiền hoà
và tốt bụng. Quân đôi chắp canh cho chúng tôi bay lên, cơm gạo Sơn Tây nuôi dưỡng
chúng tôi, tình cảm của nhân dân Sơn Tây nâng bước chúng tôi đi. Kỷ niệm về
vùng đất Sơn Tây theo suốt cuộc đời lính chúng tôi bắt đầu từ những năm tháng
học tập và rèn luyện ở trường sỹ quan và rồi sau đó gắn bó suốt cuộc đời.
Tốt nghiệp sỹ quan ra trường, chúng tôi được tổ chức
phân công ở lại trường công tác. Đất xứ Đoài không còn xa lạ nữa, con người và
những cô gái Sơn Tây giờ đây trở thành thân quen. Sơn Tây trở thành một phần
của Thủ đô Hà Nội với những khu du lịch có vẻ đẹp và huyền thoại nổi tiếng như
hồ Đồng Mô, Ao Vua, làng cổ Đường Lâm, đền Và, chùa Mía...Những cô gái Sơn Tây
không còn phải đi xe đạp nữa, họ đi xe máy tay ga đời mới, ngồi xe ô tô sang
trọng đắt tiền “ba chấm không”, đó là những xô gái năng động sáng tạo, chịu khó
học hành và thành đạt. Còn bao nhiêu cô gái Sơn Tây khác hiền thục và đảm đang
“giỏi việc nước, đảm việc nhà”, cấy lúa, trồng hoa, chăn tằm, dệt vải việc nào
cũng thành thạo. Những “cô gái Suối Hai” trở thành nổi tiếng, những nàng áo
xanh dưới chân núi Tản Viên chăn nuôi bò rất giỏi để ngày ngày cho những dòng
“sữa trắng Ba Vì”; những cô thôn nữ với vành nón trắng nhấp nhô trên đồng cho
những mùa thu hoạch bội thu, làm “Anh phi công bàng hoàng ngỡ mình bay trên gấm
vóc”. Sơn Tây đẹp như huyền thoại, con gái Sơn Tây chung tay xây dựng đất nước.
Công sức và trí tuệ của họ đã góp một phần biến vùng đất đá ong xưa, nay trở
thành làng du lịch sinh thái, khu công nghệ cao và những con đường nhựa, đường
bê tông rộng rãi nối xã nọ, làng kia cùng nhau phát triển kinh tế, “xoá đói
giảm ngheo”.
Với tôi, con gái Sơn Tây giờ đây đã là ruột thịt - cô
gái trẻ Sơn Tây năm xưa nay là “bà lão” thân sinh ra hai đứa con của mình. Cô
gái Sơn Tây ấy sẽ mãi mãi gắn bó với tôi, cùng chung niềm vui và nỗi buồn qua
năm tháng.
Hoá ra cái cảm giác ban đầu hay đánh lừa chúng ta đến
thế, con người giống như một quyển sách nếu chưa đọc thì chưa thể biết hết cái
hay của nó. Phải chăng đừng vội ngộ nhận bất kỳ điều gì khi chúng ta mới gặp?
XỨ ĐOÀI-MÍT
MẬT, ĐÁ ONG
Xứ Đoài mây trắng, nơi ấy có núi Tản
Viên với truyền thuyết Sơn Tinh chiến thắng Thuỷ Tinh, phản ánh tinh thần anh
dũng, lao động sáng tạo của con ngời chiến thắng thiên tai, lũ lụt bảo vệ mùa
màng. Sơn Tây, vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi sinh ra nhiều anh hùng dân tộc,
với Đường Lâm-một làng có hai vua (Ngô Quyền và Phùng Hưng). Về với Xứ Đoài
là về với danh lam thắng cảnh và những huyền tích lịch sử, có Hát Môn nơi ghi
dấu Hai Bà Trưng tuẫn tiết còn mãi tiếng thơm, có thành cổ Sơn Tây, có đền Và,
chùa Mía, chùa Tây Phương với 18 vị La Hán và một dải sông Đà, sông Tích làm
nên nhiều chiến công huyền thoại. Ngày nay, xứ Đoài mây trắng lại là vùng đất
đầy tiềm năng của kinh tế, du lịch đã và đang trở thành hiện thực như Đồng
Mô-Ngải Sơn, Ao Vua, Thác Đa, Suối Tiên…và nhiều sản phẩm nông nghiệp của một
vùng quê phía tây Hà Nội. Khó có thể quên đối với những ai đã đến Xứ Đoài khi được thấy hai sản phẩm quý báu đã trở
thành "đặc sản" và truyền thống, nét đẹp văn hoá đối với người dân
nơi đây-đó chính là mít mật và đá ong. Mới nghe tên hai sản phẩm này quả là quá
bình thường, nhưng kỳ thực lại rất đặc sắc và mang nhiều ý nghĩa. Người quê
cũng như người thành phố chắc là ai cũng đã một lần được ăn mít mật, mới
thấy hết vị ngọt của loại hoa trái này. Mít mật xứ Đoài lại có những đặc thù
riêng hiếm có. Vị ngọt của mít mật nơi đây được rễ cây chiết xuất từ những vỉa
đá ong trong lòng đất mẹ. Bổ quả mít mật chín cây, chỉ cần cầm cuống mít nhấc
lên, nõ của nó tụt ra, để lại một mầu vàng tươi của những múi mít vàng ươm,
bên trong óng ánh của những giọt mật ngọt thơm ngon. Người được thưởng thức
mít mật chỉ cần nhón tay nhặt chiếc tăm cắm vào múi mít nhắc lên, đưa vào
miệng, một vị ngọt đậm đà từ từ trôi vào cổ họng mới dễ chịu làm sao, ăn một
múi mít lại cứ muốn ăn thêm múi nữa, cứ thế hai ba người với một quả mít mật
nhanh chóng hết veo.
Đá
ong, nghe tên chỉ là một chất liệu khô khan, cứ tưởng rằng chẳng có tác dụng
gì, nhưng đá ong nơi đây lại là một "đặc sản" quý hiếm khó nơi nào
có được. Đá ong là một loại vật liệu người dân nơi đây dùng để xây nhà rất
phổ biến. Đi dọc theo quốc lộ 32, quốc lộ 21A hoặc vào những làng quê đâu đâu
cũng thấy những ngôi nhà xây đá ong rất đẹp. Loại vật liệu này rất dễ sản xuất,
miễn là có sức khoẻ và một ít kỹ thuật. Người dân xứ Đoài nhà nào cũng có một
dụng cụ đào đá mà người ta quen gọi là "chiếc thó". Chiếc thó cán
dài, lưỡi sắc. hai bên có cạnh để đào đá, từng hòn đá hình hộp chữ nhật được
đưa lên từ lòng đất để kiến tạo nên một ngôi nhà mới. Trước kia, những ngôi
nhà của dân hoàn toàn được xây bằng sản phẩm đá ong, hiện nay đá ong ít dần,
gạch đỏ nhiều lên, xây nhà cao tầng ít dùng tới đá ong nữa. Nhưng đá ong vẫn
là sản phẩm cần thiết cho nhân dân lao động, dù có gạch đỏ thì người dân ở đây
vẫn dùng đá ong để xây nền móng. Có đá ong, móng của ngôi nhà sẽ tăng thêm độ
chắc và bền vững. Bởi mỗi vỉa đá ong có sự kỳ lạ tuyệt vời, từng viên đá ong
khi chưa đào lên chỉ là một thứ đá lẫn với đất rất mềm, nhưng khi đã thành
từng viên vuông vắn, càng dải nắng dầm mưa, gạch đá ong càng tăng thêm độ
cứng, mưa to trôi đi lớp đất chỉ còn lại đá lỗ chỗ như tổ ong càng rắn chắc
thêm. Khi được xây bằng vữa, bằng hồ sẽ tạo thành sự bền vững dãi dãi dầu qua
năm tháng. Đất ở xứ Đoài, có đá ong tạo cho nguồn nước nơi đây trong mát,
những chiếc giếng khơi, giếng khoan có nguồn nước sạch, ngọt đến tuyệt vời,
hầu như nước không có lẫn thêm một tạp chất nào nữa, vì nó đã được lọc qua
đá ong tạo nên trong vắt. Đó là thứ nước ngọt của tự nhiên quý hiếm, bà con đi
làm đồng về nóng bức kéo một gầu nước từ giếng lên, ngửa cổ tu một hơi ừng ực.
giải toả cơn khát giữa mùa hè nóng nực mà bụng chẳng hề gì.
Mít mật, đá ong quả là những
"đặc sản" của xứ Đoài mến yêu, vỏ ngoài của nó rất gồ ghề nhăm nhở
nhưng bên trong thì thật ngọt ngào và tinh tuý như chính tấm lòng người dân
mảnh đất nơi này.
ĐỀN VÀ
Đền Và là nơi thờ Đức Thánh Tản Viên
sơn - Sơn Tinh.
Sơn
Tinh là vị thánh đứng đầu Tứ Bất tử của nước Nam (Sơn Tinh, Chử Đồng Tử, Thánh
Gióng, Liễu Hạnh). Sơn Tinh nổi tiếng với truyền thuyết cuộc chiến chống Thuỷ
Tinh trị thuỷ thời hồng hoang, biểu hiện của sự đoàn kết toàn dân chống lại sự
tàn phá của thiên nhiên, được người đời tôn vinh là Đức Thánh Tản. Truyền
thuyết lịch sử về Sơn Tinh đến ngày nay vẫn còn lưu truyền mãi mãi, thể hiện sự
tích anh hùng và tâm linh của con người đất Việt. Tương truyền thời giặc phương
Bắc đô hộ nước ta, viên quan (tiết độ sứ) cai trị là Mã Viện - một thầy phù
thuỷ cao tay dùng phép thuật yểm bùa phá các long mạch và chấn hết các huyệt
thiêng của nước Nam ,
hòng làm cho đất nước ta không phát triển được để dễ bề cai trị. Nhưng khi Mã
Viện yểm bùa chấn 2 huyệt là Hồ Tây và Tản Viên sơn (Núi Ba Vì) thì bị thất bại
vì ở đó Mã Viện gặp phải các vị thánh linh thiêng và cao siêu của nước Nam (ở
Tản Viên Sơn do Sơn Tinh chấn giữ) làm cho Mã Viện không thể chấn yểm được. Như
vậy, có thể thấy Đức Thánh Tản là vị anh hùng dân tộc, dẫu hoá thân thành Thánh
nhưng giặc không thể nào khuất phục được Ngài (cũng chính là không thể khuất
phục được lòng dân đất Việt). Ngài thật xứng đáng là vị thánh đứng đầu các vị
thánh trời Nam
(vị thánh tổ của bách thần- đệ nhất phúc thần).
Đền Và thờ đức Thánh Tản
Có rất nhiều
đền thờ Đức Thánh Tản Viên sơn, nhất là ở vùng xung quanh núi Ba Vì như Sơn
Tây, Phú Thọ, Vĩnh Phúc...Một trong những đền thờ linh thiêng đó là Đền Và ở
Sơn Tây. Đền Và toạ lạc trên một đồi lim nhỏ cạnh Quốc lộ 21 kéo dài từ thị xã
Sơn Tây đi Trung Hà thuộc xã Trung Hưng (Sơn Tây, Hà Nội).Về quy mô, Đền Và tuy
không to, không lớn, không rộng nhưng là một công trình kiến trúc văn hoá vật
thể đặc sắc vừa mang tính cổ truyền vừa mang tính hiện đại, bởi Đền Và thường
xuyên được trùng tu, tôn tạo.
Theo
truyền thuyết vào thời Hùng Vương thứ 18 có ba vị đức thánh, thần phò vua Hùng
dựng nước. Nguyên ba vị thánh, thần đó là 3 anh em con chú, con bác nhà họ
Nguyễn, người anh con ông bác là Nguyễn Tuấn (tên huý của Sơn Tinh) còn hai
người em sinh đôi con ông chú là Nguyễn Hiền và Nguyễn Sùng. Ba người anh hùng
đó sau khi giúp vua Hùng đánh tan giặc, liền xin với vua đi khắp các làng mạc
giúp dân khai điền, đắp đê, trị thuỷ; dạy dân cày ruộng cấy lúa nước, phá rẫy
trồng lúa nương, lấy ống cây nứa, cây bương, cây giang trong rừng cho gạo vào
nấu thành cơm lam. Việc giúp dân khai sơn, trị thuỷ, đắp đê chống lụt có rất
nhiều hiệu quả, hàng năm mùa màng tốt tươi, mang lại no ấm cho các bản làng.
Việc có ích đó dần dần trở thành ý thức tự giác trong nhân dân cả nước, như một
phép mầu để nhân dân hàng năm đắp thêm nhiều đê ngăn nước lũ, chiến thắng thuỷ
thần. Ba anh em đi đến đâu cũng được nhân dân tin yêu, quý mến và tôn vinh,
riêng Sơn Tinh được tôn vinh là ông vua trị thuỷ, người đời truyền gọi ba anh
em là “Một thánh, hai thần” Đức Thánh Tản Sơn Tinh (Nguyễn Tuấn), Cao Sơn thần
(Nguyễn Hiền), Quý minh thần (Nguyễn Sùng). Một lần Đức Thánh Tản Sơn Tinh phò
vua Hùng dẹp giặc Thục xong, Người cùng quân lính đi đến bên bờ sông Tích, nơi
có đất đai mầu mỡ, phong thuỷ hữu tình. Bỗng có một vầng mây hồng xà xuống che
trên đầu như một cái tán khổng lồ trời buông, Sơn Tinh cho đây là điềm lành và
đặt tên nơi đây là Vân Già. Ngài cho xây một Đông cung để mỗi lần đi qua có chỗ
trú chân (dân làng lấy tên ấy đăt tên cho làng mình là Vân Già gọi chệch là Vân
Gia). Tại nơi đây, người đời sau cho xây một đền thờ đặt tên là Đền Và (Đông
cung-Đông Chấn cung). Từ đó trở đi, Đền Và là nơi thờ Đức Thánh Tản để nhân dân
dâng hương cầu thánh, thần phù hộ, độ trì và tưởng nhớ đến vị những thánh, thần
bất tử của trời Nam.
Đến Đền Và bắt đầu từ tấm bia “hạ mã” đặt ở
lối vào, là nơi dừng ngựa, xuống xe, xuống kiệu. Bên ngoài là giếng nước nhỏ,
nước trong ngắn ngắt, ai đến thăm mà được múc nước rửa mặt thì sẽ thấy mình
thanh thoát. Tiếp theo là động ngũ hổ rồi đến Nghi môn - cổng lớn dẫn vào nội
đền, qua khoảng sân rộng là đến nhà tiền tế. Trong Đền Và thờ đức Quốc mẫu;
thời tam vị Đức Thượng đẳng là Đức Thánh Tản Sơn Tinh (Nguyễn Tuấn), Cao Sơn
thần (Nguyễn Hiền), Quý minh thần (Nguyễn Sùng). Ở đền Trung có 4 pho tượng tứ
trấn mình khoác áo bào đỏ, tay cầm vũ khí, trấn giữ 4 phương Đông - Tây - Nam -
Bắc quanh núi Ba Vì. Ngoài hiên là hai pho tượng quan văn và quan võ có nhiệm
vụ lắng nghe lời thỉnh cầu của dân gian rồi trình lên Đức Thánh Tản. Trong Đền
Và còn có 18 đạo sắc phong, 47 đôi câu đối, 18 bức hoành phi, 1 quyển văn tế, 2
tấm bia đá, 3 quả chuông đồng.
Lễ hội Đền Và
Đền Và là nơi
Lễ hội của nhân dân địa phương, nơi thờ cúng Đức Thánh Tản, thánh mẫu và các
huynh đệ của Ngài; là địa điểm du lịch đón khách thập phương đến thưởng ngoạn
và dâng hương lễ Thánh, tỏ lòng biết ơn người anh hùng khai sơn, trị thuỷ từ
thủa hồng hoang. Lễ hội Đền Và là nét đẹp của sinh hoạt văn hoá cộng đồng, văn
hoá tín ngưỡng, văn hoá tâm linh, văn hoá thờ thần thánh, thờ các vĩ nhân và
anh hùng dân tộc. Lễ hội Đền Và có sức lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân
địa phương và du khách gần xa tham gia. Lẽ hội hàm chứa ước vọng thiêt tha của
bà con nhân dân, của cộng đồng về khát vọng chiến thắng thiên tai, vươn lên làm
chủ thiên nhiên. Những hoạt động tâm linh trong lễ hội gắn kết giữa linh thiêng
và đời thường; giữa thánh thiện và trần tục, giữ thánh thần và anh hùng dân
tộc. Lễ hội còn là truyền thống văn hoá, là nét đẹp của những tấm lòng hướng
thiện, sự biết ơn, sự tôn vinh và hướng về cội nguồn.
Theo tục truyền
vào mùa xuân, trung tuần tháng giêng âm lịch lễ hội được tiến hành, nhân dân
trong vùng nô nức kéo nhau về dâng hương hoa cầu sự may mắn cho một năm mới. Có
8 làng tham gia rước kiệu và dự tế ở Đền Và, bao gồm làng Vân Gia, Cầu Trì, Ái
Mỗ, Mai Trai, Nghĩa Phú, Đàm Trai (xã Trung Hưng, Sơn Tây); Phú Nhi (phường Phú
Thịnh, Sơn Tây), Phù Sa (xã Viên Sơn, Sơn Tây); Di Bình (Vĩnh Thịnh, Vĩnh Lạc,
Vĩnh Phúc). Kiệu rước bài vị tam vị Đức Thánh gồm 32 trai tráng khoẻ mạnh thay
nhau khênh (16 người khênh, 16 người thay thế), ngoài ra còn có 4 người nang
quạt che đai và 2 người cầm tán. Khi rước, kiệu chính đi trước đến kiệu văn (để
văn tế và sự tích vị thần), tiếp đến kiệu long mũ của tam vị, sau đó đến kiệu
hương hoa, oản quả. Đám rước đi vào cổng thành cổ Sơn Tây quay một vòng rồi mới
ra bờ sông Hồng, khi nào thấy lá cờ tứ linh gặp gió thổi phất đuôi cờ về phía Nam
thì trở lại Đền Và. Ngày Đền Và lễ hội chính là ngày 15 tháng riêng nhân dân
các thôn và khách thập phương đến dâng hương hoa, oản quả viếng Đức Thánh để
cầu phúc, lộc, thọ. Bên cạnh lễ hội Đền Và, nhân dân quanh vùng còn tổ chức các
trò chơi dân gian như: chọi gà, đấu vật, đánh cờ người, bịt mắt đập niêu, thi
nấu cơm, mặc quần áo, hát các bài hát dân ca mang đậm bản sắc văn hoá Xứ Đoài
huyền thoại.
Ngày nay, Xứ
Đoài đang trên đường đổi mới, kinh tế phát triển, nhân dân ngày càng no ấm, Lễ
hội Đền Và lại càng được chú trọng, thể hiện sự tôn vinh và hướng về nguồn cội,
đây là nét đẹp văn hoá tâm linh của người dân Sơn Tây nói riêng và cả nước nói
chung. Hàng năm, vào ngày đầu xuân Đền Và mở hội, hàng vạn du khách gần xa chảy
về vùng đất thiêng Xứ Đoài dự lễ. Từng dòng ô tô, xe máy đổ về đậu kín bãi đỗ
xe, du khách xuống viếng Đền thắp hương tế tam vị Đức Thánh. Người ta bầy các
vật phẩm của ngon vật lạ: nào chè, nào thuốc, nào bia lon, rượu ngoại, nào tiền
vàng, hoa quả vào các mâm nhôm, mâm đồng dâng lên Đức Thánh, có người lầm nhầm
tự khấn vái, nhiều người nhờ các cụ Thủ từ ở đền cúng hộ, nhưng dù hình thức
cúng vái nào thì ai cũng thành tâm trước Thánh, Mong ngài phù hộ, độ trì cho
tai qua, nạn khỏi, ăn nên, làm ra, sức khoẻ dồi dào, phát triển mọi mặt. Đi lễ
hội Đền Và là món ăn tinh thần, là động lực để mỗi người tự tin hơn, vững bước
trên con đường đổi mới làm giầu cho chính mình, cho quê hương đất nước, góp
phần giữ gìn nét đẹp văn hoá truyền thống và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiến
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
LÊN THĂM CHÙA MÍA XỨ ĐOÀI
Nói đến xứ Đoài là nói đến vùng đất
địa linh nhân kiệt, vùng đất của lịch sử văn hoá với những danh lam thắng cảnh
tuyệt mỹ. Một trong những địa danh nổi tiếng của xứ Đoài là Đường Lâm - ngôi
làng cổ sinh ra hai vua (Phùng Hưng và Ngô Quyền), ở đó có rất nhiều công trình
văn hoá như đền thờ Phùng Hưng, lăng và đền thờ Ngô Quyền, đình Mông Phụ, đình
Đoài Giáp, nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh... nhưng nổi tiếng vẫn là chùa Mía -
một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo tuyệt đẹp của quê hương xứ Đoài
(Sơn Tây, Hà Nội).
Từ Hà Nội theo Quốc lộ 32 hoặc Quốc lộ
21 đi qua thị xã Sơn Tây khoảng 4 km sẽ đến làng cổ Đường Lâm. Sau khi rẽ trái
qua chiếc cổng làng là đến đền thờ Bố cái Đại vương (Phùng Hưng), đối diện là
chùa Mía. Chùa Mía toạ lạc trên đồi đất cao thuộc thôn Đông Sàng (xã Đường
Lâm). Chùa có tên chữ là Sùng Nghiêm tự, chùa được xây dựng từ thời xa xưa tại
vùng đất cổ xứa Đoài - nơi giao thoa của văn hoá thờ thần thánh, tổ tiên ông bà
cha mẹ (thờ Sơn Tinh, Phùng Hưng, Ngô Quyền; thờ thành hoàng) với thờ phật.
Chùa Mía được xây dựng lại từ đầu thế kỷ XVII (1632) thời kỳ vua Lê chúa Trịnh,
do Nguyên phi trong phủ Trịnh Tráng có tên là Nguyễn Thị Ngọc Dong (Ngọc
Diêu-Ngọc Dao) quê gốc ở đất Mía đứng ra hưng công xây dựng lại. Đến nay, chùa
Mía vẫn thường xuyên được tu bổ tôn tạo nên chùa vẫn giữ dược dáng xưa, là nơi
đáp ứng nhu cầu văn hoá tâm linh, tín ngưỡng đạo phật của đông đảo phật tử gần
xa.
TƯỢNG Ở CHÙA...
Là ngôi chùa cổ, chùa Mía có 287 tượng
phật lớn nhỏ, trong đó có 6 tượng đồng, 107 tượng mộc còn lại là tượng thổ. Mỗi
pho tượng dù được đúc bằng đồng, tạc bằng gỗ hay sinh ra từ đất nhưng tất cả
đều có vẻ đẹp linh thiêng, huyền ảo riêng, đầy chất nghệ thuật của nghề điêu
khắc Việt Nam .
Tượng phật trong chùa Mía mỗi pho đều có tư thế, dáng vẻ, vị trí khác nhau
nhưng đều nhìn người đời với ánh mắt từ
bi hỉ xả, bao dung độ lượng (trừ tượng ông Ác). Trong chùa có đến 6 tượng Thích
Ca Mâu Ni, điển hình là tượng Ngài Thích Ca Mâu Ni sơ sinh choàng áo đỏ đứng
trong vòng cung cửa động Cửu Long hai bên là tượng Nam Tào, Bắc Đẩu, biểu hiện
Ngài là người trời. Mới lọt lòng sinh ra Thái tử Tất Đạt Đa hay còn gọi là But
Đa (dân gian vẫn thường gọi là Bụt) con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da của
nước Ca Tỳ La Vệ ở phia Bắc Ấn Độ (có tài liệu cho là Nê Pan) đã nói
"Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn" (nghĩa là trên trời, dưới
trần chỉ có ta là một) hẳn ngài muốn nói vai trò của mình là "cứu khổ, cứu
nạn" cứu chúng sinh thoát khỏi bể khổ trầm luân. Tiếp sau vẫn là tượng
Thích ca sơ sinh kề bên là hai tượng đồng Ngọc Nữ, cạnh đó là tượng Ngọc Hoàng,
Lão Tử; sát hai bên bệ thờ là hai hàng tượng thập nhị Minh Vương (12 vị vua
trời cai quản 12 năm ở cõi dương gian. Sau nữa vẫn là bộ tượng Thích Ca Mâu Ni
sơ sinh bằng đồng khoác áo đỏ. Phía sau là tượng Adi Đà Phật pháp quang bằng
đồng, dáng cao, khuôn mặt từ bi, độ lượng nhìn chúng sinh. Trong cùa Mía có 2
pho tượng tương đối cao to là tượng của Đại pháp Tiên Cương và tượng Đế Thích,
đây là hai đệ tử tin cậy nhất của Phật. Bên trong nữa là tượng đồng Adi Đà rất
đẹp, ngài toạ trên toà sen, dáng khổ hạnh, kiên trì, tóc xoăn hình xoắn ốc, hai
bên và thấp hơn ngài là tượng đức Địa Tạng và đức Mục Liên.
Có một pho tượng rất đáng chú ý và trở
thành quen thuộc đối với phật tử là tượng ông Di Lặc (Bá Đại Hoà thượng), dáng
ông ngồi đường bệ, thư thái, miệng hơi cười như thấu nỗi trần gian; đôi tai dài
chảy xuống như nghe thấu mọi điều tốt sấu, ngang trái đời thường. Bụng ngài rất
bự, chắc ngài đã nuốt nhiều lời của thế thái nhân tình để cho bụng ngài ngày
một tròn hơn. Phật tử thờ ngài vì biết ngài luôn thấu nỗi trường đời, đại từ
đại bi, "cứu một người phúc đẳng hà sa".
Hai pho tượng "hộ pháp" cao
to nhất chùa là tượng của ông Thiện và ông Ác. Ông Thiện là Thái tử Thiện Hữu
với ánh mắt hiền từ, trừu mến, với cái nhìn độ lượng bao dung ấm áp của đức
phật, thấu hiểu nổi đau khổ của nhân gian; sẵn sàng tha thứ cho những lỗi lầm
của người đời mắc phải một khi biết ăn năn hối lỗi, nhận rõ những sai lầm, biết
đứng dậy sửa sai để làm việc tốt. Ông Ác là Thái tử Ác Hữu, mắt xếch, lông mày
to dậm, oai phong dữ dằn, ông có ánh mắt và cái nhìn sắc như dao cau, biểu hiện
của sự giận dữ, muốn trừng trị những kẻ có dã tâm, làm điều ác độc đối với con
người và tự nhiên. Đến chùa, ai có khuyết điểm cũng đều tự giật mình khi đứng
trước ông.
Chìa Mía có bộ tượng Bát Bộ Kim Cương
8 pho rất đẹp, biểu tượng của những ông võ tướng với nét uy nghi oai phong lẫm
liệt. Tám vị tướng võ này bảo vệ cho tám hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam,
Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc của dương gian luôn được bình an vô sự. Tiếp theo
hai bên hành lang của chùa là bộ tượng Thập bát vị La Hán (18 vị La Hán) mỗi
bên 9 vị. Mỗi tượng La Hán có hình dáng khác nhau, tư thế khác nhau biểu hiện
của hành động khác nhau, cách ngồi khác nhau, trạng thái nét mặt khác nhau, ánh
mắt nhìn khác nhau... thể hiện cho mỗi thân phận con người nơi trần thế gặp
nhiều hoàn cảnh khó khăn, khổ ải, đớn đau khi bị lưu lạc, đoạ đầy, oan nghiệt.
Phía nhà sau của chùa là
những tượng ngự trong các động, các cung khác nhau với nhiều tượng của các nhân
vật nổi tiếng theo phật hoặc là những vị thánh trong dân gian và lịch sử dân
tộc như tượng A Nan (Đức thánh Hiền),
Đức ông Cô Độc, Quan âm thị Kính, bà chúa Liễu Hạnh, động Tuyết Sơn... Đặc biệt
ở gian trước của chùa còn có nơi thờ di ảnh những anh hùng liệt sĩ, những người
có công với đất nước trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc và trong
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, biểu hiện của đạo với đời luôn gắn liền với
nhau.
...PHẬT Ở TRONG TÂM
Dân gian thường nói thờ phật ở chùa
không bằng thờ phật trong tâm. Chẳng cứ phải đến chùa mới cầu được tài được
lộc. Mà hãy tin ở chính lòng mình, nếu làm nhiều việc thiện, giúp được nhiều
người, biết kính trọng tổ tiên, ông bà, cha mẹ, yêu quý quê hương đất nước thì
sẽ thấy lòng mình thư thái, thanh thản, bớt đi những nghen tuông, tham lam, tà
dâm, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Dẫu có đi chùa thắp hương trước tượng phật
hay "tu tại gia" thì bằng chính lòng mình hãy đọc "Nam mô phật,
tây phương cực lạc thế giới đại từ đại bi - adi đà phật" và tự hỏi rằng
trong cuộc sống mình đã làm điều gì tốt chưa chắc sẽ được đức phật phù hộ độ
trì, có sức khoẻ tốt, "ăn nên làm ra". Ai gây ngang trái, lừa thầy
phản bạn, làm nhiều điều không hay dẫu có đến chùa thờ phật cũng khó lòng thanh
thản và chẳng bao giờ được bình yên. Như vậy là phật luôn trong tâm và đi cùng
với người trên con đường đến nơi cực lạc.
Chùa Mía một công trình văn hoá nghệ
thuật, có giá trị tâm linh, phản ánh góc cạnh cuộc sống đời thường, nơi hoạt
động thờ cúng của giới tăng ni phật tử và quần chúng nhân dân. Đến với chùa Mía
để thấy lòng mình thảnh thơi, gột đi những bụi trần, làm thêm nhiều điều tốt.
Là con người bất kỳ già trẻ, gái trai đã đến với chùa, đứng hoặc quỳ lậy trước
tượng phật chính là bày tỏ tấm lòng hướng thiện, muốn tìm về cái tốt, cái bản
ngã của mỗi người. Đó là nét đẹp của văn hoá, tôn giáo phương Đông, văn hoá
Việt Nam
mà xứ Đoàn là nơi gìn giữ, hội tụ và toả sáng.
SƠN TÂY – MẢNH
ĐẤT XỨ ĐOÀI
Sơn Tây, mảnh đất xứ Đoài với nhiều huyền
thoại của cả lịch sử và hiện tại lại là nơi đùm bọc, gúp đỡ, che trở bộ đội
Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn năm xưa nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1 - Trường
Đại học Trần Quốc Tuấn. Trong 70 năm xây dựng, chiến đấu, đào tạo và trưởng
thành thì có đến hơn 60 năm Trường Đại học Trần Quốc Tuấn đóng quân trên đất
Sơn Tây giàu truyền thống cách mạng. Ngay từ khi mới thành lập, Sơn Tây đã được
Nhà trường chọn làm nơi đóng quân để huấn luyện những khoá cán bộ "Võ bị
Trần Quốc Tuấn" đầu tiên, góp phần đào tạo ra đội ngũ cán bộ quân sự ưu tú
cho Đảng và Quân đội, để bảo vệ chính quyền nhân dân còn non trẻ lúc bấy giờ.
Nhân dân Sơn Tây luôn yêu quý, đùm bọc, giúp đỡ bộ đội Lục quân rất nhiều cả về
vật chất lẫn tinh thần. Chính ở khu vực bến xe ô tô Sơn Tây ngày nay là nơi
Khoá 1 Võ bị Trần Quốc Tuấn được khai mạc, Nhà trường đã cùng với nhân dân Sơn
Tây rất vui mừng, phấn khởi được đón Bác Hồ về thăm và trao lá cờ truyền thống "Trung với nước,
Hiếu với dân" cho Nhà trường tại vùng đất thiêng này. Ngày nay,
"Trung
với nước, Hiếu với dân" đã trở thành truyền thống và lời thề danh
dự của Quân đội nhân dân việt Nam
đối với Tổ quốc.
Kháng
chiến bùng nổ, bộ đội của Trường Đại học Trần Quốc Tuấn tạm biệt quê hương Sơn
Tây trở lại chiến khu Việt Bắc và sang nước bạn đào tạo. Đồng bào Sơn Tây chia
tay, mong có ngày bộ đội Lục quân trở lại. Hoà bình lập lại, bộ đội Lục quân
trở về Sơn Tây, trên mảnh đất Công trường 50 (Nay là xã Cổ Đông, thị xã Sơn
Tây, Hà Nội). Đồng bào Sơn Tây lại cùng
với bộ đội Lục quân san sẻ những gian khổ trong lao động, huấn luyện và xây
dựng Nhà trường. Có những lúc nhạt muối, đói cơm nhưng tình nghĩa quân dân cá
nước thì không bao giờ phai nhạt. Cũng có khi nhân dân gặp hiểm nghèo, lũ lụt
kéo về, phản động quấy rối, máy bay quân thù bắn phá..., bộ đội Lục quân lại
giúp dân trừ gian, cứu đói, hộ đê, chống lũ lụt, giúp đồng bào sơ tán khỏi bom
đạn của giặc Mỹ... ơn nghĩa đó đồng bào và bộ đội đều ghi.
Đất nước mở cửa, nền kinh tế của cả
nước nói chung và của Sơn Tây nói riêng có bước phát triển vượt bậc. Bộ đội Lục
quân lại góp phần cùng với Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân Sơn Tây
chung tay xây dựng quê hương giầu đẹp, phát triển kinh tế vững mạnh, xây dựng địa
bàn đóng quân an toàn, an ninh, trật tự xã hội. Công cuộc xoá đói giảm nghèo
được các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương chăm lo, thúc đẩy. Bộ đội Lục
quân lại cùng với nhân dân đóng góp giúp đỡ những gia đình chính sách, những
người có công với cách mạng, những người có hoàn cảnh khó khăn. Bộ đội tặng
quà, tặng sổ tiết kiệm, xây nhà tình nghĩa, đóng góp quỹ từ thiện, quỹ bảo trợ
trẻ em, khám chữa bệnh miễn phí cho nhân dân trên địa bàn đóng quân, xay dựng
khu dân cư an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội... Nhân dân địa phương vẫn
yêu quý bộ đội Lục quân như xưa, đồng bào tạo điều kiện mọi mặt cho bộ đội Lục
quân học tập, huấn luyện. Những lúc khó khăn, gian khổ, bộ đội Lục quân đã dựa
vào nhân dân, phối hợp với cấp uỷ Đảng, chính quyền và đoàn thể các địa phương
kịp thời tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước cho nhân dân. Bằng những việc làm thiết thực, hiệu quả bộ đội Lục quân
đã xây dựng tốt mối đoàn kết quân dân, xây dựng được lòng tin yêu của nhân dân.
Bộ
đội Lục quân còn tích cực tổ chức giao lưu kết nghĩa với các địa phương khu vục
đóng quân, tạo nên tình cảm gắn bó keo sơn. Các chi đoàn, liên chi đoàn và đoàn
cơ sở trong Nhà trường và tổ chức đoàn ở các địa phương thường xuyên tổ chức
hoạt động giao lưu văn hoá văn nghệ, thi đấu thể thao, lao động giúp đỡ các gia
đình chính sách...Vào dịp hè tổ chức cho các cháu thiếu nhi ở những thôn xung
quanh Nhà trường hoạt động hè sôi nổi, bổ ích; đội văn nghệ xung kích và đội
điện ảnh lưu động của Nhà trường thường xuyên đi về các địa phương, vùng sâu,
vùng xa thuộc địa bàn hoạt động của Nhà trường biểu diễn văn nghệ, chiếu phim
màn ảnh rộng phục vụ bà con nhân dân... Những việc làm trên, được Đảng, chính
quyền và nhân dân địa phương ghi nhận.
CÓ MỘT TƯỢNG ĐÀI TRÊN
ĐẤT SƠN TÂY
Tượng
đài Quốc công tiết chế Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn được xâu dựng trên
mảnh đất Sơn Tây đầy huyền thoại và cách mạng. Đây là một công trình nằm trong
quần thể tượng đài các danh nhân văn hoá, quân sự Việt Nam-là một công trình kiến
trúc văn hoá có giá trị thẩm mỹ và tư tưởng cao. Tượng đài được Trường Đại học
Trần Quốc Tuấn xây dựng trên chính khuôn viên của Nhà trường và khánh thành vào
năm 2005.
Lịch sử dân tộc đã ghi nhận, Quốc công
tiết chế Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn-là danh nhân quân sự kiệt xuất-
Người đã vì nước, vì dân, gạt bỏ thù riêng, đoàn kết quân dân một lòng, giúp
Vua Trần ba lần đại thắng quân Nguyên-Mông, giữ vững bờ cõi, sơn hà xã tắc, xây
dựng vương triều Trần thành một trong những vương triều phong kiến hưng thịnh
nhất của lịch sử Việt Nam.
Trần
Quốc Tuấn là người văn võ song toàn, khi đất nước đứng trước hoạ xâm lăng dưới
vó ngựa của giặc Nguyên Mông-đội quân hung hăn nhất đã từng chinh phạt khắp
châu Á, châu Âu mà không thế lực nào ngăn cản nổi. Ông đã giúp vua Trần mở Hội
nghị Bình Than lấy ý kiến dân chủ, đoàn kết của tướng sỹ một lòng vì nước, mở Hội
nghị Diên Hồng xin ý kiến các bô Lão về đoàn kết toàn dân đánh giặc xây dựng
nên ý chí “Sát Thát”. Người đã viết nên những áng văn bất hủ “Hịch tướng sỹ”
kêu gọi ba quân cùng đứng lên chống giặc ngoại xâm. Người đã xây dựng nên một ý
chí quyết đánh quyết thắng, củng cố niềm tin dám đánh, dám thắng vào lòng vua
tôi Nhà Trần với câu nói bất hủ “Nếu Bệ Hạ muốn hàng thì hãy chém đầu thần
trước đã”. Người là tác giả của sách lược, chiến lược phòng thủ đất nước chống
giặc ngoại xâm mà nổi tiếng là bộ “Binh thư yếu lược-Vạn kiếp tông bí truyền
thư ” với kế sách giữ nước còn lưu mãi đến đời sau “Khoan thư sức dân, làm kế sâu rễ bền gốc là
thượng sách giữ nước”.Người đã được Vua Trần Nhân Tôn và Thượng hoàng
Trần Thánh Tôn giao cho trọng trách nặng nề Quốc công Tiết chế thống lĩnh quân
đội, chiến đấu chống giạc phương Bắc xâm lược, bảo vệ giang sơn gấm vóc.
Đóng quân trên địa bàn Sơn Tây, Trường Sỹ quan Lục quân 1 được mang tên
Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (Trường Đại học Trần Quốc Tuấn ngày nay), tên này
do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cho Nhà trường với mong muốn đây là nơi đào
tạo những nhà chỉ huy Quân đội đầy tài năng, thao lược, quả cảm và nhân nghĩa,
Bác đã nói: “Trường
của các cháu lấy tên là Trần Quốc Tuấn, cái tên đó chỉ rõ nhiệm vụ nặng nề và
tương lai vẻ vang của các cháu, các cháu phải ra sức thi đua làm tròn nhiệm vụ
để xứng đáng với tên Trường vẻ vang của các cháu, để xứng đáng với lòng tin cậy
mà Chính phủ và đồng bào đặt nơi các cháu...”. Được mang tên Người Anh hùng dân tộc-một danh nhân lịch sử là một vinh
dự to lớn luôn nhắc nhở mọi cán bộ, giảng viên, học viên hãy noi gương ý
chí của người xưa hết lòng xả thân vì đất nước, ra sức học tập, rèn luyện để xáng đáng với truyền thống đánh giặc giữ
nước của tổ tiên, là người cán bộ quân sự thì phải có ý chí quyết đánh,
quyết thắng từ đó mà xây dựng quyết tâm cao tích cực trong giảng dạy, học tập,
quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giáo dục-đào tạo, xây dựng Nhà trường
vững mạnh toàn diện.
Trường Đại học Trần Quốc Tuấn đã xây dựng tượng đài Quốc công Tiết chế
Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn giữa giữa lòng mảnh đất Sơn Tây. Bắt đầu từ
năm 2000 Trường Đại học Trần Quốc Tuấn đã
tổ chức hội thảo, xin ý kiến các cơ quan chức năng và các nhà chuyên môn trong
đó có ý kiến tham gia của Giáo sư sử học Lê Văn Lan, hoạ sỹ Trần Khánh
Chương...để tuyển chọn mẫu tượng đài. Cũng trong năm 2000, đồng chí Phan Văn
Khải-nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ đã đến thăm Trường
và tặng Nhà trường bức tượng Quốc công Tiết chế Hưng đạo Đại vương Trần Quốc
Tuấn bằng thạnh cao, đây là cơ sở rất quan trọng để Hội đồng tuyển chọn mẫu
tượng đài của Nhà trường làm căn cứ. Sau nhiều lần hội thảo, Nhà trường đã quyết
định chọn mẫu tượng đài Quốc công Tiết chế Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn cơ
bản giống như bức tượng bằng thạch cao mà nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải đã
tặng. Đây là mẫu tượng đài rất phù hợp với không gian bố trí trong khuôn viên
của Nhà trường, tượng đài vừa có ý nghĩa thẩm mỹ kiến trúc vừa có ý nghĩa văn
hoá, lịch sử và theo đúng quy chế quản lý tượng đài của Bộ Văn hoá,Thể tao và
Du lịch. Tượng đài được thi công đúng tiến độ và khánh thành vào dịp kỷ niệm
lần thứ 60 năm Ngày truyền thống Nhà trường 15/4/2005. Đây là một công trình
nằm trong quần thể tượng đài các danh nhân văn hoá, quân sự Việt Nam-là một
công trình kiến trúc văn hoá có giá trị thẩm mỹ và tư tưởng cao, là tài sản rất
có giá trị không những của Nhà trường mà còn là của quân đội và đất nước. Tượng
đài được đặt đúng vị trí hợp lý trong khu làm việc của Nhà trường - giữa lòng
mảnh đất Sơn Tây, với quy mô tổng diện tích 2826 mét vuông bao gồm cấu trúc mặt
nước với cây xanh, hài hoà với cảnh quan xung quanh, cùng mảng phù điêu, khối
tượng đài Quốc Công tiết chế Hưng đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cao lớn uy
nghiêm, mắt sáng nhìn xa, một tay cầm đốc kiếm, một tay cầm cuốn binh thư, thể
hiện rõ một vị "Nhân tướng". Công trình tượng đài là một điểm nhấn, một tâm
điểm quan trọng trong bố cục quy hoạch tổng thể của Nhà trường và một phần văn
hóa Sơn Tây.
Tượng đài Trần
Quốc Tuấn không chỉ phản ánh lịch sử, văn hóa, chính trị của dân tộc mà còn tô
điểm làm đẹp cảnh quan của một Nhà trường đào tạo sỹ quan mang tên Người. Những
giá trị đích thực của công trình tượng đài góp phần nâng cao đời sống văn hoá
tinh thần cho cán bộ, học viên, công nhân viên, chiến sỹ Nhà trường và địa
phương. Khắc ghi những mốc son chói lọi, vẻ vang của Nhà trường, nhắc lại kỷ
niệm sâu sắc thiết tha đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đây cũng là một
hình tượng giáo dục đầy ý nghĩa cả về lịch sử, hiện tại và tương lai cho các
thế hệ học viên sĩ quan và nhân dân địa phương.
Mỗi
khi đến viếng và thắp hương trước tượng đài Quốc công Tiết chế Hưng đạo Đại
vương Trần Quốc Tuấn chính là sự tôn vinh đối với Người anh hùng dân tộc-danh
nhân quân sự Thế giới. Mỗi người luôn bày tỏ tình cảm và thái độ trân trọng,
tôn vinh người anh hùng dân tộc, vị tướng tài, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, đối
với các thế hệ sĩ quan Lục quân cũng như đối với nhân dân địa phương trên địa
bàn đóng quân trong quá trình hoạt động giao lưu. Đồng thời, chú trọng bảo
quản, giữ gìn, tu bổ, tôn tạo tượng đài và các công trình văn hoá của Nhà
trường đã được các thế hệ đi trước xây dựng nên. Đặc biệt luôn quan tâm đến các
tài sản văn hoá có giá trị, kể cả văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể, làm
cơ sở để giáo dục truyền thống, động viên bộ đội trong học tập, công tác và rèn
luyện, kịp thời khai thác, sử dụng các công trình văn hoá vào học tập, sinh
hoạt có hiệu quả. Từ đó nêu cao tinh thần trách nhiệm và lòng tự hào của mỗi
cán bộ, giảng viên, học viên, công nhân viên, chiến sỹ của Nhà trường khi được
mang tên người anh hùng dân tộc "Võ bị Trần Quốc Tuấn" mà Bác Hồ tin
tưởng đặt cho, khẳng định vai trò quan trọng của Nhà trường trong nhiệm vụ đào
tạo cán bộ cho quân đội, quan hệ đoàn kết quân dân gắn bó. Từ đó không ngừng
nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo, phấn đấu hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm
vụ được giao, giữ vững truyền thống Nhà trường anh hùng.
HẠNH PHÚC ĐẾN MUỘN
Ngày ấy, đơn vị học viên sĩ quan chúng
tôi đi học tập dã ngoại đóng quân trong nhà dân tại một thôn nhỏ thuộc huyện
Lương Sơn, Hòa Bình. Xóm nhỏ ấy ẩn mình sau rặng tre xanh tốt dưới chân một
triền đồi hình vòng cung giống như một con cò đang lặn lội kiếm ăn. Đồi cao,
cây tốt, tre xanh thật là một làng quê yên ả, ấm cúng, đúng là “đất lành chim
đậu” chiều chiều từng đàn cò trắng chấp chới bay về đây trú ngụ trên những ngọn
tre, tiếng kêu ồn ả, làm náo động cả dáng chiều thôn xóm. Mỗi buổi sáng tinh
mơ, khi mặt trời chưa thức giấc đàn cò đã thức dậy, nhộn nhạo rồi bay đi kiếm
ăn, từng vệt trắng vút lên không trung tản về các cánh đồng đâu đó kiếm mồi.
Rồi mỗi buổi chiều cò lại bay về thôn trú ngụ làm nên khoảng lặng xôn xao và
thanh bình của một vùng đồi núi thôn quê. Chẳng biết có phải nhiều cò về xóm
làm tổ hay không hoặc do dáng đất của xóm có hình giống như một con cò đang lặn
lội kiếm ăn mà tên xóm được đặt là “Xóm Cò” hoặc “Làng Cò”.
Xóm Cò dân cư không đông lắm, với trên
hai chục nóc nhà, tuy thế cũng đủ để đại đội học viên chúng tôi đóng quân học
tập dã ngoại. Tiểu đội 4 của tôi được phân công ở trong ngôi nhà tranh giữa
xóm, chủ nhà là một bà mẹ già, hai cô gái lớn và một đứa cháu ngoại khoảng 4
tuổi, gia đình dành cho chúng tôi toàn bộ 2 gian nhà ngoài còn ba mẹ con họ ở
gian buồng phía trong. Khi đàn cò tao tác đi kiếm ăn cũng là lúc chúng tôi tập
trung thành đội hình ra thao trường huấn luyện tập bài chiến thuật “Tiểu đội bộ
binh tiến công địch phòng ngự ở địa hình rừng núi”. Những ngày đóng quân trong
nhà dân, sau giờ học tập, huấn luyện vất vả chúng tôi được sống trong tình cảm
và không khí ấm cúng tình quân dân cá nước làm vợi bớt đi những mệt nhọc của
nắng gió thao trường. Buổi tối miền sơn cước bao giờ cũng đến xớm, mùa đông thường
lạnh hơn, khi không phải sinh hoạt, tiểu đội chúng tôi thường cùng gia đình
ngồi quây quanh bếp lửa sửi ấm, nướng khoai lang, sít xoa bóc vỏ mời nhau ăn.
Bà mẹ của hai cô gai thật là vui tính và quý mến bộ đội, bà thường dành cho học
viên chúng tôi những củ khoai, củ sắn nướng thơm lừng, khoảng cách giữa chủ nhà
và bộ đội cứ ngắn dần và thân thiết đoàn kết gắn bó. Chúng tôi chuyện trò và
biết được hoàn cảnh của gia đình, nhà có hai chị em, cô em gái thứ hai đã học
xong phổ thông cơ sở, không có điều kiện học tiếp cấp III ở nhà giúp mẹ việc
ruộng đồng nương rẫy, cô chưa có chồng. Cô chị tuổi chừng trên 30 đã có một đứa
con trai lên 4 tuổi, suốt ngày cháu chỉ thích đi theo các chú bộ đội. Không
biết chồng cô làm gì ở đâu mà những ngày đóng quân tại gia đình cúng tôi không
hề gặp. Qua tìm hiểu, được biết chị tên là Dung, đã đi bộ đội mới về phục viên
được mấy năm nay. Khi về chị mang theo một đứa con trai, chị bảo chị chưa có
chồng, nhưng đã có con, điều đó làm chúng tôi tò mò muốn nghe chị kể lại những
vui buồn gian khổ đời lính của chị. Thế rồi, chị kể: Năm đó, chị nhập ngũ vào
bộ đội hậu cần, được đi học y tá rồi chị trở thành người chiến sĩ quân y phục
vụ tại Quân y viên 175 đóng quân ở Thành phố Hồ Chí Minh. Viện Quân y 175 là
một bệnh viện lớn của Quân đội, là tuyến cuối quân y ở các tỉnh phía Nam .
Ngày ấy, Viện 175 tràn ngập thương binh từ các tỉnh biên giới Tây Nam và
chiến trường nước bạn Campuchia về điều trị. Nhiều thương binh nặng với những
vết thương cực kỳ nguy hiểm rất cần sự cứu chữa của những bác sĩ giỏi và bàn
tay chăm sóc, tình cảm thương yêu của những nữ hộ lý, y tá của bệnh viện. Chị
là một trong những người rất cần như vậy, là nữ y tá đảm nhiệm cương vị hộ lý
chị hết lòng chăm hóc thương binh, từ phụ giúp bác sĩ mổ, gây mê hồi sức đến sự
chăm lo nơi ăn, chốn ngủ, gường nằm cho thương binh, có những lúc chị phải tận
tình bón từng thìa cháo, thìa sữa cho thương binh nặng, thay băng, rửa vết
thương, ngồi làm chỗ dựa và hát cho thương binh ngủ để họ dịu bớt những cơn đau
trên thân thể không lành lặn của họ. Chị làm việc nhiệt tình, quên cả vất vả,
mệt mỏi nhằm san sẻ những nỗi đau cho các anh bộ đội bị thương. Chị dành tình
thương thật sự cho người chiến sĩ, chỉ mong sao cho các anh mau khỏi bệnh, lành
vết thương được xuất viện xớm. Đáp lại tình thương yêu chăm sóc của chị, nhiều
thương binh được điều trị khỏi vết thương, luôn cám ơn sự chăm sóc đó. Trong sự
vất vả, trách nhiệm cũng có niềm vui, niềm hành phúc nhen nhúm, nảy sinh từ
trong đau đớn. Có một anh thương binh đồng hương cùng tỉnh Hòa Bình trong thời
gian điều trị tại bệnh viện luôn nhận được sự quan tâm, gần gủi, chăm sóc, tâm
sự của chị đã đem lòng yêu chị, một tình yêu thắm thiết của sự trân trọng và
biết ơn. Những lúc gần gủi chăm sóc, anh thường kể lại cho chị nghe về những kỷ
niệm đẹp từ thủa còn thơ cắp sách đến trường, chăn trâu cắt cỏ trên quê hương
Hòa Bình, làm cho chị bùi ngùi nhớ quê da diết và cũng từ lúc nào chị đem lòng
yêu anh thắm thiết mặc dù anh là thương binh nặng. Chị biết và trân trọng một
phần xương máu của anh đã gửi lại nơi chiến trường biên giới để cho quê hương
được bình yên. Như có phép mầu, đón nhận tình yêu và bàn tay chăm sóc dịu dàng
của chị, thương tật của anh hồi phục nhanh chóng. Trong một buổi tối cùng anh
đi dạo trong khuôn viên bệnh viện, hai người đã nói với nhau những lời yêu
thương tha thiết, một nụ hôn nóng hổi của người thương binh đồng hương đậu trên
môi người nữ y tá viện quân y và rồi từ đó tình yêu của họ ngày càng nồng thắm
như bao lứa đôi trai gái khác. Không cầm lòng được chị đã trao cho anh tất cả
sự trinh nguyên của người con gái. Thề là, ít lâu sau một mầm sống trong chị
đang lớn lên từng ngày, chị cảm thấy hạnh phúc đang đến rất gần với người con
gái sắp được làm vợ, làm mẹ.
Thế rồi, mặt trận biên giới phía Tây Nam
ngày càng nóng bỏng, thương binh về bệnh viện càng nhiều. Tạm ổn định thương
tật, chuẩn bị ra viện, đơn vị đưa xe về đón anh sang đất bạn tiếp tục chiến đấu
cứu dân thoát khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt. Anh đột ngột ra mặt trận, buổi chia
tay thật vội vã, chỉ có những cái bắt tay rất chặt và đôi mắt đắm đuối nhìn
nhau như hẹn ước ngày trở về gặp lại, anh chẳng nói lên lời mà chị cũng chỉ òa
lên khóc tiễn anh mà không kịp hẹn ước với nhau được điều gì, chỉ để lại đôi
dòng địa chỉ. Anh trở lại mặt trận chiến đấu vẫn chưa kịp biết mình đã có con
với một người con gái mà mình luôn quý trọng và biết ơn. Thế là chị sẽ trở
thành mẹ mà chưa một ngày được làm vợ. Khi đứa bé chào đời cũng là lúc chị nhận
được quyết định phục viên rời quân ngũ. Trở về gia đình, chị chẳng có gì cả
ngoài tài sản quý giá nhất đó là đứa con trai ngoài giá thú, nhưng đó là niềm
an ủi, một hạnh phúc không trọn vẹn của đời người con gái. Thôi thế cũng được,
mình cũng đừng gây khó dễ cho bất kỳ ai, cũng chẳng cần tìm quê nội của con làm
gì để gia đình anh ấy khỏi bận tâm vì có một người phụ nữ bỗng dưng bế con về
trả “nhà chồng”. Dân làng quê anh sẽ đồn thổi rằng anh là con người phụ bạc,
con trai chị lại mang tiếng là đứa con vô thừa nhận - chị nghĩ như vậy.
Về quê, chị và con âm thầm sống, âm thầm
chịu đựng. Chị cùng mẹ và em gái tần tảo xớm hôm lao động trên đồng ruộng,
nương rẫy làm ra hạt lúa củ khoai, nuôi sống chính mình và xã hội. Vốn là một
nữ y tá có tay nghề vững, chị gúp dân làng chữa bệnh, nhà ai có người ốm cần
đến là chị có mặt ngay, chị không nề hà vất vả xớm khuya giúp đỡ mọi người, nên
chị luôn được dân làng trong xóm Cò quý trọng và yêu mến.
Nghe chị kể mà chúng tôi buồn với nỗi
buồn và vui với niềm vui nho nhỏ mà đầy nỗi chân chuyên của chị.
Một buổi chiều, từ ngoài thao trường về,
trên đường làng chúng tôi gặp một người đàn ông ở độ tuổi trung niên, dáng
người mảnh khảnh, mặc bộ quân phục cũ, dắt chiếc xe đạp thống nhất đang ngó
nghiêng như muốn tìm một nhà ai đó, thỉnh thoảng lại nhìn vào một tờ giấy nhỏ
như muốn tìm hiểu điều gì. Khi gặp một bà cụ già, người đàn ông lễ phép hỏi:
- Cụ cho cháu hỏi thăm, đây có phải là
xóm Cò không ạ?
- Đúng rồi, đây chính là xóm Cò! Thế chú
hỏi nhà ai?
- Dạ cháu tìm nhà cô
Dung ạ, cô Nguyễn thị Dung là bộ đội phục viên ấy mà!
- Cô Dung ý tá phải không?
- Dạ phải ạ!
- Thế thì nhà cô ấy ở phía trước đấy,
ngôi nhà tranh có hàng cau trước cửa. Chắc giờ này cô ấy đi làm về rồi đấy,
tiện đường để tôi đưa chú đến đó.
Đến ngôi nhà tranh có hàng cau trước cửa,
người đàn ông ngập ngừng dắt xe vào ngõ. Bà cụ già đứng ngoài đường gọi vào:
- Cô Dung y tá ơi! nhà có khách ra mà đón
kìa.
Rồi bà cụ tiếp tục đi làm việc của mình.
Đang ngồi nhặt rau dưới bếp, chị Dung
nghe tiếng gọi, báo có khách đến thăm, chị vội đứng dậy chạy ra ngoài, nhìn
thấy người đàn ông dắt xe đạp đã vào đến sân có khuôn mặt quen quen. Bất chợt
chị nhận ra người mà mình chờ đợi bấy nhiêu năm, nay mới xuất hiện, chị đứng
xững người, mớ rau muống trên tay chợt rơi xuống đất lúc nào mà chị không hề
biết. Đôi dòng nước mắt của chị chẩy dài mà không tài nào thốt nên lời.
Chẳng khác gì chị, người đàn ông cứ vậy
đứng nhìn chị khóc mà chẳng có lời nói và hành động gì, chiếc xe đạp không có
chỗ dựa lăn kềnh ra đất. Tự nhiên như hai luồng điện lóe sáng.
- Dung em, anh đi tìm em mãi! Đúng là em
rồi?
- Anh Tuấn, có phải anh Tuấn thương binh
không?
- Anh đây, tưởngrằng trong cuộc đời này
anh không được gặp em nữa!
- Thế anh đi đâu mà mãi đến giờ mới đến
tìm em. Vào nhà đi anh, sao cứ đứng ngoài sân thế này.
Tuấn vội vàng chạy về phía Dung như muốn
ôm người yêu vào lòng nhưng ngượng ngập, bẽn lẽn, một lúc lâu sau hai người mới
dắt tay nhau vào nhà. Thằng bé con chẳng hiểu mô tê chi cả liến láu hỏi mẹ “Nhà
mình có khách hả mẹ. Bác bộ đội này ở xa đến hả mẹ, Bác có ăn cơm nhà mình
không?”
Thế rồi, ít lâu sau, đám cưới của chị Dung
và anh Tuấn được tổ chức rất đơn giản nhưng ấm cúng. Chị theo chồng về làm dâu
nhà người tuy có đôi chút muộn màng nhưng tràn đầy hạnh phúc. Người mẹ của đứa
trẻ ấy sau những năm tháng dài âm thầm chờ đợi không hy vọng nay đã được làm
vợ.
Một mối tình của lính dẫu gặp nhiều gian
truân và vô vàn trắc trở do hoàn cảnh chiến tranh để lại nay đã được đoàn tụ.
Hạnh phúc luôn mỉm cười với ai biết trân trọng và kiên trì chờ đợi, niềm tin
người lính mãi mãi được tỏa sáng đối với những ai có tấm lòng cao thượng.
Chiến tranh có thể cướp đi nhiều thứ, có
thể cả tính mạng nhưng tình yêu thì mãi mãi không thể lấy đi.
Hạnh phúc dẫu muộn màng nhưng niềm tin
luôn chiến thắng.
LÀNG NUÔI RẮN Ở
SƠN TÂY
Phụng
Thượng là một xã thuần nông, một trong những vựa lúa của huyện, đất ở đây mầu
mỡ, dễ canh tác, lúa tốt, hạt mẩy, năng xuất cao, gạo ngon cơm dẻo. Tuy nhiên,
Phụng Thượng có dân số đông, diện tích hẹp, ruộng đất cứ ít dần so với tỷ lệ
tăng dân số (người đẻ chứ ruộng đất không đẻ), nên lao động dôi dư nhiều, việc
làm thiếu. Người dân Phụng Thượng năng động, sáng tạo, luôn vươn lên chiến
thắng đói nghèo và tìm cách làm giầu bằng chính đôi tay, khối óc, sức lực của
mình. Họ làm nhiều nghề, đi đến nhiều nơi để buôn bán và tổ chức làm nghề phụ,
chăn nuôi các loại động vạt hoang dã từ gấu, nai, kỳ đà, trăn, rắn... Đặc biệt
là người dân Phụng Thượng chú trọng chăn nuôi rắn hổ mang xuất khẩu, đây là một
nghề nguy hiểm, có thể nói là nghề nuôi rắn "tử thần". Bởi vì, rắn hổ
mang có hai loại đó là rắn hổ mang bành (hổ mang phì) và hổ mang chúa. Rắn hổ
mang bành có nọc rất độc nhưng không thể độc bằng rắn hổ mang chúa. Rắn hổ mang
chúa có nọc cực độc, người hoặc động vật bị loại rắn này coi như lĩnh án tử
hình, ít có khả năng cứu chữa được. Khi nọc rắn hổ mang chúa đã vào máu thì đành
bó tay, kể cả những ông lang giỏi nhất của nghề chữa rắn cắn đến những bệnh
viện hiện đại nhất cũng khó mà chữa khỏi.
Trò chuyện với
anh Đỗ Thế Thọ - một người làm nghề nuôi rắn hổ mang chúa, quê ở xã Phụng
Thượng-huyện Phúc Thọ-tp Hà Nội, anh cho biết: ở xã Phụng Thượng của anh hiện
nay có 19 cô gái tuổi đời còn rất trẻ nhưng đã là những người đàn bà goá chồng
do chồng của họ bị rắn hổ mang chúa cắn. Mặc dù các đức ông chồng của các cô
đều là những người nuôi rắn hổ mang cự phách, nhưng họ đã "tử vì nghệ".
Đa số họ chết khi bị chính những con rắn hổ mang chúa của mình cắn với nhiều
tình huống bất khả kháng khác nhau. Mà đã bị hổ mang chúa cắn coi như cầm chắc
cái chết, mặc dù họ đều có kinh nghiệm nuôi rắn và chữa rắn độc cắn. Họ bị rắn
cắn trong quá trình chăm sóc rắn, cho rắn ăn, chỉ một chút lơ là, bất cẩn mà
tính mạng của họ bị huỷ hoại. Có người vừa mở nắp hầm nuôi rắn ra, liền bị hổ
mang chúa mổ đúng vào môi nên không thể garo được, chất độc ngấm vào máu, người
tím tái đến chết. Có người vừa mở tủ quần áo ra liền bị rắn hổ mang chúa nằm
trong tủ lúc nào không biết mổ vào mặt thế rồi cũng không thể thoát được lưỡi
hái của tử thần. Hầu hết, những người bị rắn hổ mang chúa cắn mặc dù biết chết
nhưng đành chịu bó tay, chỉ dặn vội vợ con phải cận trọng hơn trong khi chăm
sóc rắn và đến lứa thì bán đi đừng nuôi chúng nữa, kẻo hại đến tính mạng. Họ ra
đi để lại những người vợ trẻ, những đứa con thơ và món tiền nợ ngân hàng lên
đến hàng chục triệu đồng.
Tâm
sự với tôi, anh Đỗ Thế Thọ kể tiếp: hiện nay tôi không còn nuôi rắn hổ mang
chúa nữa mà chuyển sang làm nghề khác vì nuôi rắn nguy hiểm quá, nguy hiểm
không những cho mình mà cho cả vợ con và gia đình nữa. Anh biết không, nghề
nuôi rắn hổ mang cũng đầy rủi ro; nguy hiểm thì ai cũng biết nhưng rủi ro thì có
ở trong nghề mới rõ. Chỉ cần rắn bị bệnh, bỏ ăn, không lớn được hoặc bị chết
thì người nuôi rắn sẽ bị lỗ nặng, tiền vay ngân hàng lãi mẹ đẻ lãi con, có khi
dẫn đến phá sản. Nhưng đáng sợ nhất vẫn là nguy hiểm cận kề. Hồi đó, đàn rắn
nhà tôi có một con hổ mang chúa khá to, nặng khoảng trên 7 kg, nhà tôi hôm ấy
gặp may nếu không thì chưa biết điều gì đã xảy ra. Buổi tối hôm trước khi cho
rắn ăn, tôi đậy nắp hầm không kín, với sức mạnh của con rắn lớn, trưa hôm sau,
lúc đói, nó đội nắp hầm chui ra ngoài, bò thẳng đến tấm phản nơi có đứa con
trai 3 tuổi của tôi đang nằm ngủ, nó trườn qua người thằng bé, vợ chồng tôi
nhìn thấy rợn hết tóc gáy nhưng đành phải đứng bất động nhìn con rắn trườn trên
người đứa con yêu thương của mình mà không làm gì được, chỉ cần thằng bé cựa
quậy là cháu sẽ bị nó cắn ngay và chúng tôi sẽ mãi mãi mất con. May thay, thằng
bé vẫn ngủ ngon lành, không hay biết gì cả, con rắn từ từ trườn vào gầm giường
nơi mát mẻ nằm cuộn tròn ở đó. Vợ tôi vội rón rén đến bế con lên tránh xa con
rắn đó, tôi bình tĩnh vào gầm giường túm đuôi lần theo lưng rắn, chẹn ngang
đầu, bắt nó thả vào hầm nuôi đậy kín lại và cho nó ăn. Thật là hú vía, xong
việc chân tay chúng tôi mới run lên bầy bật, may mà có trời phật giúp đỡ chứ
không thì hôm đó chúng tôi đã bị mất đứa con trai yêu quý của mình. Sau này lứa
rắn đó lớn lên đủ trọng lượng xuất chuồng, gia đình tôi bán đi tất cả và quyết
định từ đó không bao giờ nuôi rắn độc trong nhà nữa. Nhưng ở xã Phụng Thượng
thì vẫn còn những hầm nuôi rắn độc của nhiều nhà dân, nên ở đây luôn đầy rẵy
nguy hiểm cận kề. Tôi chỉ sợ trong làng, trong xã không dừng lại ở con số 19
phụ nữ goá chồng nữa mà còn có thể nhiều người sấu số hơn thì đáng buồn biết
bao.
Tò
mò, tôi hỏi anh Đỗ Thế Thọ, nuôi rắn hổ mang chúa cho nó ăn bằng gì, anh Thọ
cho biết, nếu như rắn hổ mang bành chuyên ăn chuột, ăn cóc thì rắn hổ mang chúa
không ăn chuột, ăn cóc mà thức ăn của chúng chính là đồng loại. Vì nọc của hổ
mang chúa là độc nhất nên nó không sợ bất kỳ loài rắn nào, nó ăn thịt tất cả
các loài rắn khi bắt gặp kể cả rắn hổ mang bành hoặc rắn cạp nong, cạp nia.
Người nuôi rắn thường thu mua các loại rắn khác mang về làm thức ăn cho rắn hổ
mang chúa. Trước khi cho chúng ăn, người nuôi thường làm sạch ruột rắn mồi và
nhét vào đó thuốc kháng sinh, thuốc bổ, thuốc tăng trọng và vitamin để rắn hổ
mang chúa không bị mắc bệnh và chóng lớn, nhanh xuất chuồng.
Trong
môi trường ở nước ta, hầu như hổ mang chúa không sinh sản được, nên nguồn rắn
giống phải nhập khẩu từ nước ngoài, chính những cánh rừng già ở Campuchia, Lào,
Thái Lan là nơi cung cấp rắn hổ mang chúa vào Việt Nam. Đến nước ta có bao
nhiêu cá thể rắn hổ mang chúa giống thì phát triển bấy nhiêu rắn trưởng thành
chứ không sinh sản thêm được cá thể nào nữa. Chúng được nhập khẩu lậu theo
đường tiểu ngạch mỗi cá thể nặng khoảng 0,5 - 0,7 kg, nửa năm sau rắn lớn lên
nặng khoảng 7-8kg, cá biệt con to nhất nặng đến 17 kg. Rắn càng to thì nọc càng
độc. Loại Hổ mang chúa to nặng này mà cắn thì đến voi, trâu cũng chết, nói chi
đến con người. Nhưng hổ mang chúa có nọc
độc nhất khi nó sắp lột xác; con rắn có dáng chậm chạp, hai mắt mờ đục, da xù
vẩy, ấy là lúc chuẩn bị lột xác, nọc cực độc, cắn người và động vật chết ngay
lập tức.
Nuôi rắn hổ mang chúa rất nguy hiểm, cái chết luôn
rình rập bên cạnh, nhưng vì lợi nhuận kinh tế cao nên nhiều hộ dân ở Phụng
Thượng vẫn cứ nuôi. Một kg rắn hổ mang chúa có giá lên đến 2 triệu đồng, trong
khi đó một kg rắn hổ mang bành chỉ có giá khoảng 87 nghìn đồng mà thôi. Theo
anh Thọ nói: trong một số gia đình nuôi rắn hổ mang chúa đã có những nhà nuôi
được những con rắn nặng đến 17, 18 kg tức là đã có số tiền trị giá bằng một
chiếc xe máy đắt tiền. Vì vậy, biết nguy hiểm cận kề nhưng nhiều người dân ở
đây vẫn cứ tiến hành nuôi rắn hổ mang chúa, thậm chí họ còn chăm sóc loài vật
nguy hiểm này cẩn thận hơn những loại vật nuôi khác. Khi rắn hổ mang chúa bị ốm
hoặc chúng lười ăn, người nuôi rắn phải nhét mồi vào miệng và ấn vào bụng rắn
như ta nhồi bánh đúc cho gà ăn vậy, thật là nguy hiểm. Nhưng vì miếng cơm manh
áo và phát triển kinh tế, ở Phụng Thượng những ông chủ nuôi rắn thấy rất bình
thường, họ bắt rắn như ta bắt gà vậy, tuy nhiên ở họ chắc là có bí quyết riêng,
nếu không họ sẽ bị rắn cắn ngay lập tức.
Rời
làng rắn Phụng Thượng, tôi thấy gai người khi nghĩ lại cái cảm giác của anh Đỗ
Thế Thọ chứng kiến con rắn hổ mang chúa nặng gần một yến trườn qua người đứa
con trai 3 tuổi thân yêu của mình khi cháu đang nằm ngủ bình yên giữa căn nhà
yêu dấu của mình.
BIỂN HÁT CHIỀU
NAY
MỘT CA KHÚC VỀ
BIỂN CÒN MÃI VỚI THỜI GIAN
Trong các bài hát về biển có rất
nhiều bài hay, nhưng có một ca khúc để lại nhiều cảm xúc và ấn tượng nhất đối
với thính giả đó là ca khúc "Biển hát chiều nay" của Nhạc sĩ Hồng
Đăng. Ca khúc về biển này có giai điệu đằm thắm, thiết tha, lời ca gần gũi, trong sáng, thân tình mà sâu nặng.
Mở đầu là câu hát "Chân
trời rất xa gọi nắng xôn xao" mở ra một
khoảng không gian rộng lớn về biển với mầu xanh bất tận đến chân trời,
xôn xao ánh nắng gọi về. Biển hiền hoà, hào phóng, biển mang về cho quê hương
nhiều hải sản quý hiếm, nuôi sống con người, biển giữ vững an ninh chính trị,
biển là phên dậu của Tổ quốc. Đất nước rộng dài bao gồm đất liền, thềm lục địa
và các hải đảo xa xôi. Biển cả với mặt nước mênh mông, rộng và đẹp biết nhường
nào. Tổ quốc như một gấm hoa, ở đó biển chính là bông hoa đẹp nhất, xanh trong,
nắng và gió mát lành "Chân trời rất xa gọi nắng xôn xao". Hình tượng
những con tầu ra khơi xa đầy ắp cá trở về làm nên no ấm. Những cánh buồm no gió
vươn xa cùng cánh hải âu thấp thoáng, những vạt nắng chiều trở về cảng, cá ngập
đầy khoang hoà trong nhiềm vui chung của những ngư dân ven biển. "Con
thuyền rất vui gọi nắng mới ngọt ngào", những cô gái làng chài xinh đẹp, e
ấp trong vành nón trắng, trên vai đôi quang ra đón thuyền cập bến và những gánh
nặng đầy no ấm. áo xanh hoà vào mây trắng làm sôn xao rộn rã cả một góc biển
chiều. Đại dương bao la luôn đợi chờ những khát khao của những tâm hồn và trí
tuệ muốn làm chủ biển khơi, khám phá tiềm năng của biển. Những con sóng xanh,
sóng bạc cứ nối đuôi nhau đùa vui không dứt, nhưng ở đó còn dấu diếm bao điều
thầm kín. Phía xa chân trời, mầu biển xanh gợi nhớ những ánh mắt thăm thẳm
ngóng chờ tin người thân xa khơi. Biển là thử thách, là rèn luyện, là đón chờ
những ý chí dám vươn xa, những khát khao không mệt mỏi, những cánh tay vươn dài
về phía đại dương xanh thẳm. Màu xanh ấy là niềm tin, là sự sống, là hy vọng và
đợi chờ từ hai phía. Những dải mũ hải quân, những tà áo trắng lính thuỷ, những
đôi tay rắn chắc bẻ lái các con tầu vẫn hiện hữu nụ cười xinh tươi về những
nàng tiên của biển nơi hậu phương xa lắc "Môi cười rất xinh, lung linh mầu
áo, mây trắng gợn lên những khát khao đại dương". Câu hát cứ vời vợi, vừa
gần gủi vừa xa xôi, như có thể nắm lấy, nhìn thấy, sờ thấy, nhưng khát khao
thăm thẳm và vẫn phải đợi chờ.
Vẫn
biết biển rộng mênh mông là thế, biển là những con sóng là hào phóng nhưng cũng
rình rập những hiểm nguy, chỉ khi nào con tầu cặp bến, hoàn thành sứ mạng thì
người giữ biển mới có em, lúc ấy người lính biển đan tay cùng người yêu dạo phố
Cam Ranh, Vũng Tầu, Nha trang, Hải Phòng... Khi con tầu còn lắng sóng trên biển
thì người yêu của anh chính là biển xanh. Khi những chiếc thuyền ra khơi mà cá
chưa đầy khoang thì mây trời và những con sóng vẫn là hướng cần tìm, đành gác
lại tình em vào dịp khác. Cứ mỗi buổi bình minh với mầu nắng mới ngọt ngào toả
khắp không gian lại mở ra phía chân trời khát khao và hy vọng mới. Nơi ấy gọi
người đi xa, nơi ấy có gió xôn xao, có lung linh mầu nắng và tràn trề những
niềm vui mới. Nhạc sĩ Hồng Đăng vẽ ra một bức tranh về đại dương xanh thẳm,
rộng lớn. Biển gọi người đi khám phá những điều kỳ thú, bất chấp những cản trở
của thiên nhiên và kẻ thù tiềm ẩn. Gợi cho bao con người những điều cần biết về
biển đảo Việt Nam
"Có gì sáng nay mà gió xôn xao, chân trời vẫn xanh mầu nắng vẫn ngọt ngào".
Đúng là biển Việt Nam giống như con người Việt Nam một nắng hai sương, giống
dải đất Việt Nam hình chữ S oằn mình chịu bão táp phong ba, giống lịch sử Việt
nam bốn nghìn năm tồn tại và linh thiêng, giống chân lý Việt Nam kiên cường và
bất khuất, giống con tầu Việt Nam rẽ sóng vươn xa vượt qua muôn vàn bão tố. Để
con người Việt Nam làm chủ tương lai, để đất nước Việt Nam như một dáng rồng
bay, để lịch sử Việt Nam oai hùng và bất tử, để chân lý Việt Nam mãi mãi vững
bền, để con tầu Việt Nam hoà nhập cùng đại dương "Ơi biển Việt Nam, ơi
sóng Việt Nam, qua bao nhiêu thăng trầm mà chiều nay vẫn dịu dàng". Khổ
đau nhiều nên yêu thương lắm, gian khổ đạn bom, thuỷ lôi, tàu chiến địch quần
đảo làm rách biển nhiều lần, vết thương chưa lành, biển tạm quên đi những buốt
sót, để nghĩ về quê hương, để xây dựng quê hương, xây dựng tiềm năng biển, đảo,
khai thác thềm lục địa, khoan mỏ tìm dầu và để biển hát tình ca. Biển luôn hào
phóng và tha thứ "Vùi sâu dưới đáy những gì yêu thương, biển lại hát tình
ca, biển kể chuyện yêu thương". Rất nhân văn và đậm đà tình nghĩa, biết
căm thù nhưng cũng biết yêu thương. Biển Việt Nam tạm quên đi những qua khứ, mở
ra nhiều tương lai, đa phương hoá quan hệ, là bạn với mọi người, bắt tay thiện
chí với đối tác. Biển Việt Nam là thế đấy, với quê hương biển luôn cận kề, chở
che cho đất, biển là thành luỹ, biển là tiềm năng, là niềm hy vọng, là bản nhạc
muôn đời sóng vỗ du dương nhưng với kẻ thù thì sẵn sàng chôn vùi chúng mỗi khi
chúng xâm lược.
Mọi
con sóng luôn bắt nguồn từ biển và hối hả đổ bờ với những yêu thương, hờn giận,
cả oai hùng và cay đắng. Con người Việt Nam ,
biển Việt Nam
là những dũng sĩ có sức mạnh vô địch, sức mạnh đó bắt nguồn từ tình yêu với
những thăng trầm trải dài qua năm tháng. Nhạc sĩ Hồng Đăng với nguồn cảm xúc và
tình yêu biển thiết tha, từ đáy lòng đã làm nên một ca khúc để đời và sống mãi
với thời gian, để cho mỗi cuộc đời và cả quê hương đều nhân lên tình yêu với
biển, tình yêu con người với con người, tình yêu với quê hương đất nước. Thử thách ấy được chính biển xanh ghi nhận và
giữ gìn vào lòng đại dương xanh thẳm "Mỗi một tình yêu, mỗi một cuộc đời;
qua bao nhiêu thăng trầm lửa thử vàng mới nên người; biển xanh vẫn nhắc những
lời yêu thương; biển vẫn hát tình ca, biển kể chuyện quê hương". Kết thúc
bài hát, những lời ca ngọt ngào, sâu lắng như nhắc nhở, nhắn gửi đối với mỗi
người về những trăn trở và cần phải làm gì với biển quê hương.
"MẶT TRỜI BÉ CON" CÒN MÃI
TRONG TÂM HỒN NGƯỜI CHIẾN SĨ
Tình cảm thân thiết, gắn bó giữa các
chú bộ đội và các cháu thiếu nhi đã được thể hiện rất rõ trong cuộc sống và
trong sách báo cũng như các hình thức nghệ thuật khác. Các nhạc sĩ đã có những
bài hát rất hay dành cho thiếu nhi và nói về tình cảm giữa các cháu đối với các
chú bộ đội. Trong số những bài hát đó, đáng chú ý và trân trọng là bài hát
"Mặt trời bé con" của Nhạc sĩ Trần Tiến. Giai điệu và lời ca của bài
hát không những đã thể hiện rõ những tình cảm gắn bó thân thiết của những
"cô bé, cậu bé" đối với các chú bộ đội mà còn thể hiện những khát
vọng trở thành người lớn với những ước mơ cháy bỏng của các cô cậu ở độ tuổi
học trò.
Tự hào và khâm phục biết bao người
chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam mạnh mẽ trong chiến đấu, vững vàng đi đầu
trong phòng chống thiên tai, bão lũ, cứu hộ, cứu nạn nhưng cũng rất giầu tình
cảm, trí tuệ và tài năng. Chỉ một thời gian ngắn ngủi, rãnh rỗi lúc xa nhà, anh
ngồi đàn hát những bài ca cách mạng sao mà hay quá, tha thiết quá, thu hút quá,
mở ra một khoảng trời mơ ước lớn biết
nhường nào, để những "cô bé, cậu bé" nghe và "cười mơ màng"
đầy ắp niềm vui. Người chiến sĩ thả tâm hồn của mình vào bài hát say sưa như
quên đi chính mình và cũng không hề biết rằng có người đang nghe trộm bài hát
của mình. Tâm hồn của người chiến sĩ
trong trắng vô tư đến vậy và của cô bé, cậu bé học trò ngây thơ quá độ, nghe
đến đam me và cuốn hút quên cả hoàn cảnh của chính mình. Các đối tượng rơi vào
các hoàn cảnh khác nhau, một người "mắt tròn xoe đám say" một người
không nhớ mnổi chính mình đang hát đến đoàn nào của bài hát "Đàn tôi hát câu
chi, mà sao cô bé cười" mở đôi mắt tròn xoe.
Cảm ơn người nhạc sĩ tài hoa đã đưa
vào điệu nhạc, lời ca những âm thanh đồng điệu của các em nhỏ đối với các chú
"bộ đội Cụ Hồ", tình cảm tha thiết đến vậy. Sự hoà đồng lên đến đỉnh
điểm, chỉ là vô tình nhưng anh chiến sĩ vẫn say sưa đàn hát; rất cố ý nên các
em bé đã quên đi cả những trò chơi khác "bắn bi, đánh đáo, trốn tìm"
để tập trung nghe những âm thanh tâm tình của người chiến sĩ xa nhà. Quả thật
đối với anh chiến sĩ hết bất ngờ này, đến bất ngờ khác ập tới, từ khi bắt gặp
cô bé trèo cành me nghe anh hát đến khi thấy cô bé mắt tròn xoe nghe tiếng đàn
của anh.
Chỉ một hình tượng người chiến sĩ và
cô bé kia thôi cũng đã nói rõ được tình đoàn kết quân dân, tình cảm của
"Bộ đội Cụ Hồ" với các cháu thiếu niên, nhi đồng. Hẵn rằng trong mắt
các cháu trẻ thơ hình ảnh các chú bộ đội rất đẹp, là ước mơ của bao cô cậu học
trò, của bao chàng trai cô gái, đó là niềm tin, là hy vọng, là ước mơ, là hứa
hẹn của các cháu vào tương lai tươi sáng.
Người chiến sĩ vẫn mong các cháu lớn
từng ngày, trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Niềm tin ấy thắp
sáng theo năm tháng "Trời mưa quá bao lâu, mà sao cô vẫn chờ, vẫn
đợi". Đây chính là niềm tin, hy vọng của những tâm hồn trong trắng ngây
thơ. Biết đâu ngày mai cô bé trở thành cô giáo, anh chiến sĩ trở thành một sĩ
quan quân đội. Mà tâm hồn sĩ quan và cô giáo trường làng thường có những đồng
cảm sâu sắc và một sức hút vô tình nào đó, để lúc ấy cô bé không phải trèo cành
me nghe trộm bài hát của anh chiến sĩ nữa. Mong muốn đó quá giản dị và đơn sơ
như chính cuộc đời của họ vậy "Hạnh phúc quá đơn sơ, đời tôi đâu có ngờ
như chờ từng giấc mơ". Chắc Nhạc sỹ Trần Tiến cũng rất xúc động khi chứng
kiến cô bé, cậu bé kia yêu ca nhạc đến nhường nào và quý mến chú bộ đội đến
đâu mới phải nhìn qua khe cửa và trèo lên cành me để nghe chú đàn, chú hát.
Thật là hạnh phúc đối với người chiến
sĩ xa quê luôn có những người quan tâm đến tiếng đàn tiếng hát tức là quan tâm
đến chính mình, mặc dù những người đó chỉ là những "cô bé", "chú
bé". Nỗi niềm đó luôn là chờ đợi, ngóng trông, là niềm hy vọng thiết tha
dù cho đó có phải là sự chờ đợi đơn sơ nhất. Anh chiến sĩ xa nhà, anh chiến sĩ
hát, anh chiến sĩ đàn, đó là điều bình thường của cuộc sống, nhưng với thế
giới trẻ thơ hình ảnh chú bộ đội luôn là hình ảnh cao thượng, là niềm tin, là
hy vọng, là ước muốn lớn lao của biết bao thế hệ "người lớn" khi
tuổi còn thơ.
Đẹp thay, hình ảnh "Anh bộ đội Cụ
Hồ" cũng luôn lắng động trong lòng người Nhạc sỹ tài hoa. Bằng ngôn ngữ
âm nhạc, Trần Tiến đã chụp lại tấm hình với đủ các sắc mầu của âm thanh mối
quan hệ mật thiết ân tình, sâu lắng và sinh động của người chiến sĩ và các
cháu thiếu nhi. Với ống kính âm thanh vang vọng ấy, càng tôn vinh ân tình người
chiến sĩ và tâm hồn trẻ thơ đến tuyệt đẹp. Thật là cao thượng và thiêng liêng
đến nhường nào, những "thiên thần bé nhỏ" luôn tồn tại và là mục
tiêu chiến đấu của biết bao thế hệ "Bộ đội Cụ Hồ". Cảm phục sự phát
hiện tinh tuý của Nhạc sỹ về những điều kỳ thú ấy của "Thế giới trẻ
thơ". Ngôn ngữ âm nhạc quả là có sức mạnh diệu kỳ, nó làm lay động đến tận
tâm khảm của mỗi người, rồi cứ ngấm dần, ngấm dần, thẩm thấu êm dịu và lung
linh huyền ảo, tạo nên sự đam mê của từng tấm lòng yêu trẻ.
Biết rằng, cuộc sống vẫn còn đầy dẫy
những vất vả, lo toan, nhưng những giai điệu âm thanh trong trẻo, vui tươi và
nhân hậu đó làm thổn thức, rung động bao trái tim và khối óc người Việt Nam.
Hiểu rằng, tăng thêm trách nhiệm chăm lo cho thế hệ tương lai, những trẻ thơ
của đất nước là của mọi người.
Một sự thật đến độ yêu thương và dễ
thông cảm cho cả chú và các cháu, đàn hát và nghe đàn hát say sưa đến quên cả
chính mình, để cho trời mưa ướt cả bản nhạc, lời ca đến độ ray dứt khôn
nguôi, câu ca như cứa vào trái tim người nỗi niềm luyến tiếc báu vật tinh
thần của chú và cháu "Trời mưa quá bao lâu, bài ca ướt mất rồi còn đâu
?". Nhưng dù sao tiếng đàn của anh chiến sĩ vẫn mãi mãi là niềm tin, niềm
hy vọng không bao giờ tắt đối với các cháu thiếu nhi "Đàn anh đã cho tôi
dòng sông mang cánh buồm khát vọng". Chính lời ca và điệu nhạc cảm động
ấy, là ngọn lửa thắp sáng mãi tâm hồn trẻ thơ và những tâm hồn trẻ thơ cũng là
những đề tài vô tận, những cảm hứng thiết tha để các nhạc sỹ sáng tác.
Bài hát đã kết thúc rồi, nhưng âm hưởng
của nó vẫn lắng sâu trong tâm trí của bao người nói chung và người chiến sĩ
nói riêng. Riêng tôi luôn ở trong tâm trạng mong muốn được nghe nhiều lần bài
hát "Mặt trời bé con", được nhâm nhi thưởng thức nó như được nhâm
nhị một cốc rượu đầy đang "sủi bọt".
NỖI NHỚ S«ng quª"
Trªn thao trêng, sau
nh÷ng giê luyÖn tËp vÊt v¶, häc viªn Lôc qu©n tô tËp bªn nhau v©y quanh c©y ®µn
ghi ta bËp bïng vµ h¸t cho nhau nghe nh÷ng ca khóc c¸ch m¹ng ca ngîi Tæ quèc,
ca ngîi quª h¬ng, ®Ó dÞu bít ®i c¸i n¾ng mïa hÌ gay g¾t, xua tan ®i nh÷ng mÖt
nhäc thao trêng. Ai còng thÝch h¸t vµ nghe nh÷ng bµi h¸t vÒ quª h¬ng, bëi ë
®ã ®Çy ¾p nh÷ng kû niÖm tuæi th¬ cña hä. Mét trong nh÷ng bµi h¸t ®ã lµ
"Khóc h¸t s«ng quª" cña Nh¹c sü NguyÔn Träng T¹o ®îc mäi ngêi yªu
thÝch nhÊt. Bëi, xa quª, ai còng nhí vÒ quª h¬ng, ngêi lÝnh còng vËy, quª h¬ng
g¾n bã mét thêi kh«ng thÓ nµo quªn. Ngêi lÝnh lín lªn tõ b¸t c¬m quª, tõ
tiÕng ru Çu ¬i cña mÑ, ra ®i tõ nh÷ng c©u ca cña bµ víi c¸nh cß, c¸nh v¹c bªn
s«ng. Quªn sao ®îc qu¶ cµ ch¸t mÆn, nh÷ng ngän rau muèng, rau dÒn c»n cçi,
qu¶ bÇu lñng l¼ng treo trªn giµn cha b¾c véi b»ng cét gç, cµnh tre. Nh÷ng ®ªm
tr¨ng s¸ng trai g¸i lµng rñ nhau ngåi c¹nh bê s«ng hoÆc trªn nh÷ng triÒn ®ª
hãng giã, ®ïa nhau t¸n tØnh mÊy c©u ch¼ng cã cuèi, cã ®Çu. ThÕ mµ hä yªu nhau
råi ra ®i cÇm sóng, ®Ó tríc qu©n thï d¸m hy sinh cho th«n lµng ®îc ªm Êm, yªn vui; ®Ó tiÕng ru cña mÑ, cña bµ vÉn
ngµn ®êi m·i m·i ng©n vang; ®Ó c¸nh cß, c¸nh v¹c vÉn cø lÆn léi trong c©u ca
dao kh«ng bao giê t¾t. §Õn h«m nay, Tæ quèc hoµ b×nh, ®Êt níc ph¸t triÓn,
nh©n d©n Êm no h¹nh phóc, nhng ngêi lÝnh vÉn cø m·i xa quª, vÉn canh c¸nh
nhí vÒ mét lµng quª cña m×nh. ë ®ã cã con s«ng quª yªu dÊu, n¬i Êy cã trµn trÒ kû
niÖm kh«ng thÓ phai mê, cã con ®ß xa, cã chç ngåi ngãng mÑ, cã ®µn tr©u ®ñng
®Ønh mçi chiÒu bu«ng, cã c¸c em th¬ t¾m m¸t díi tra hÌ. Hoµi niÖm Êy cóa ïa
vÒ bÊt tËn, ®Õn l¾ng s©u, dÞu rµng, tan n¸t mçi khi ®îc nghe "Khóc h¸t
s«ng quª" cña NguyÔn Träng T¹o. Chao «i! ngêi lÝnh xa quª ®Õn qu¸ nöa
®êi ngêi, nhng mçi khi ®îc trë l¹i th¨m quª, ®îc óp mÆt trªn dßng s«ng
tho¶ thÝch, ®îc kho¶ m¸t, ®¾m m×nh díi dßng níc xanh ng¨n ng¾t míi thÊy
hÕt c¸i tét cïng cña nçi nhí quª da diÕt. Nçi nhí Êy ®îc tÝch tô l©u ngµy råi
vì oµ ra cïng dßng ch¶y cña s«ng quª. Trªn ®êi nµy kh«ng cã g× bao la b»ng Tæ
quèc, kh«ng cã g× réng më nh lßng mÑ vµ dßng s«ng th¬ Êu còng kh¾c kho¶i nhí
mong vµ d¹t dµo nh lßng mÑ, lµm sao cã thÓ quªn ®îc hìi ngêi ! Gian lao
vÊt v¶ cña ngêi ra ®i cÇm sóng b¶o vÖ quª h¬ng, ®èi mÆt víi hy sinh, víi "chíp bÓ, ma
nguån", nhng vÉn cã niÒm tin chiÕn th¾ng, vÉn trµn trÒ hy väng phï sa
cña quª h¬ng sÏ mang vÒ mïa mµng béi thu, vÒ nh÷ng c¸nh ®ång 5 tÊn, c¸nh ®ång
cña 50 triÖu/ha. DÉu cho cã "n¾ng th¸ng s¸u, b·o th¸ng bÈy" th× ngêi
lÝnh vÉn nhí vÒ quª mÑ ë ®ã cã dßng s«ng quª, cã c©u hß väng m·i bÕn s«ng xa.
§Êt níc ViÖt Nam
th©n yªu nµy, lµng quª nµo còng cã mét dßng s«ng, con suèi ch¶y qua. Nh÷ng kû
niÖm ªm ®Òm cßn ®éng m·i trong lßng ngêi xa quª. Tuæi th¬ vêi vîi g¾n bã víi
dßng s«ng, ai ®ã m×nh trÇn, ch©n ®Êt, quÇn ®ïi ngôp lÆn gi÷a dßng ch¶y tra hÌ
®Õn ch¸y x¸m thÞt da. Råi ch¨n tr©u, c¾t cá lËt ®Ët quanh n¨m, thÊm ®Ém nçi vÊt
v¶ cña lµng quª nghÌo. Quªn sao ®îc c¸i ®ãi ®Õn cån cµo, thÌm mét b¸t c¬m
khoai, mét cñ s¾n lïi, mét n¾m ng« rang; thÕ ®Êy, ®ãi ®Õn nao lßng mµ trong bÕp
vÉn l¹nh tanh v× cha cã g¹o thæi c¬m. VËy th× ra bê s«ng ngåi hãng giã, ngãng
mÑ vÒ chî víi x©u b¸nh ®a võng, vµi ba c©y mÝa ë trong tëng tîng ®· c¶m
thÊy no råi. Khi trËn m¹c ®i qua, ®Êt níc yªn b×nh, nçi nhí s«ng quª ®Ó dµnh
lµm kû niÖm "S«ng cßn nhí ch¨ng? n¬i ta ngåi ngãng mÑ, vêi vîi tuæi
th¬…"
Nh¹c sü NguyÔn
Träng T¹o vµ nhµ th¬ Lª Huy MËu tµi ba ®· nãi giïm ta nh÷ng kû niÖm ªm ®Òm mµ
da diÕt ®ã. C¸i yªu th¬ng tr×u mÕn ®Õn kh¾c nghiÖt cña tuæi th¬ nghÌo vÒ mét
dßng s«ng quª lu«n in ®Ëm trong lßng ngêi lÝnh xa quª. DÉu r»ng c¸c dßng s«ng
bao giê còng cho nh÷ng mïa mµng t¬i tèt, ®ã lµ t¬ng lai, lµ no Êm, lµ b·i
ng« ven s«ng, vên rau mít m¾t, lµ "c©y trång trªn b·i". Yªu quª h¬ng
lµm sao chÝnh lµ ®©y, lµng quª ven s«ng víi bê b·i xanh t¬i, n¬i ®ã chiÒu
chiÒu cã nh÷ng c« g¸i g¸nh níc tíi rau, nh÷ng chµng trai vun trång hoa
tr¸i, lµ n¬i hß hÑn løa ®«i khi ®ªm ®Õn tr¨ng lªn, bao chuyÖn t×nh say ®¾m cña
trai g¸i lµng quª víi nh÷ng yªu th¬ng, hên dçi, nh÷ng chuyÕn ®ß ®Çy sang
s«ng, cÆp bÕn vµ nh÷ng ngêi lì ®ß ®ªm khuya thÊp thÓnh tiÕng gäi khµn da diÕt
®Õn nao lßng lµm nghiªng ng¶ c¶ v¹t s«ng. ThÕ råi b×nh minh lªn, nh÷ng tia n¾ng
xanh tíi trªn bê b·i phï sa, chît vôt ngang trêi mét con s¸o sang s«ng, tiÕng
sãng vç bê kh¾c kho¶i nh chia sÎ nçi buån c« ®¬n cña ngêi trai lµng võa
tiÔn ngêi yªu m×nh lªn "xe hoa" qua s«ng kÕt duyªn míi.
Dßng s«ng quª xanh ®Õn
b¸t ng¸t nghÜa t×nh, s«ng cho c¸ t«m, s«ng cho níc m¸t tíi kh¾p ruéng ®ång ®Ó
mçi mïa thu ho¹ch béi thu. ¤i chao! mïi th¬m cña lóa míi, cña r¬m quª sao tha
thiÕt thÕ, ®Õn kh«ng thÓ nµo t¶ næi, cø vêi vîi, xao xuyÕn, nao lßng "Lóa
gÆt råi, cßn ®Ó l¹i r¬m th¬m". NhiÒu ngêi xa quª dÉu cã cuéc sèng sung
tóc, no ®ñ n¬i thÞ thµnh, nhng nhí vÒ dßng s«ng, ®ång lóa, ®êng th«n víi mïi
th¬m cña lóa míi, cña r¬m th¬m ch¾c r»ng kh«ng khái ch¹nh lßng, nh÷ng kû niÖm xa,
nh÷ng nçi nhí l¹i ïa vÒ ®Õn øa níc m¾t, s«ng ¬i!
Quª h¬ng cña Nh¹c sü
NguyÔn Träng T¹o vµ nhµ th¬ Lª Huy MËu ch¾c còng c¹nh mét dßng s«ng, nªn ca
khóc "Khóc h¸t s«ng quª" cña c¸c «ng lµm l¾ng ®éng bao tr¸i tim ngêi
xa quª, giai ®iÖu mît mµ nh dßng ch¶y s«ng quª, dÉu cã "chíp bÓ ma
nguån" nh÷ng vÉn lai l¸ng t×nh ngêi ®Êt mÑ, quª cha. Tõng nèt nh¹c bay
bæng ©n t×nh, ©m hëng lan to¶ vµ ngÊm ®Ém vµo lßng ngêi. Ca tõ rÊt hiÖn ®¹i
nhng gÇn gñi qu¸, th©n th¬ng qu¸, da diÕt qu¸. "¤i con s«ng quª d¹t
dµo nh t×nh
mÑ", ®Õn h¹t phï xa còng lµm ta nuèi tiÕc, ngän giã heo may sao ®Ñp ®Õn v«
ngÇn, ®Ó cho em yªu cã ®«i m¸ öng hång "H¬ng vÞ heo may trªn m¸ em
hång". Ca tõ ®¾t ®Õn thÕ lµ cïng, tÊt c¶ gi¶n dÞ th«n quª nhng cã giai
®iÖu nµo, lêi ca nµo mµ kh«ng lµm say ®¾m lßng ngêi, nã cø th¨ng hoa, cø day
røt, cø vêi vîi, cø man m¸c ®Õn ngÈn ng¬ råi ngÊm s©u ®Õn tËn ®¸y lßng. Nghe
mét lÇn kh«ng thÓ nµo quªn, nghe nhiÒu lÇn thµnh ra nçi nhí, thuéc lêi råi nh
thÊy bãng h×nh m×nh trong ®ã. Vµ råi ¸y n¸y, ®øng ngåi kh«ng yªn nghÜ r»ng ®·
lµm ®îc g× cho mÑ cha, ®ãng gãp ®îc g× cho quª h¬ng, ®Êt níc. ChØ ngÇn
Êy th«i còng ®ñ lµm lßng ta quÆn ®au, nhøc nhèi. Bµi ca nh lêi nh¾n göi thóc
giôc ©n t×nh, nh¾c nhë chóng ta, ai còng cã thÓ quªn ®i nhiÒu thø nhng t×nh
yªu quª h¬ng ®Êt níc th× ®õng bao giê quªn. S«ng nh nghÜa mÑ, s«ng nh
t×nh cha, s«ng nh t×nh yªu ®Êt níc; nghÜa mÑ réng lín bao la, t×nh cha réng
dµi v« tËn, ®Êt níc ngµn ®êi bao dung.
Lêi ca mît mµ
s©u l¾ng cña ca sü Anh Th¬, ca sü Minh Ph¬ng vµ cña ngêi lÝnh Lôc qu©n ®Ó
cho dßng s«ng cø ch¶y m·i, ch¶y hoµi nh
lßng mÑ bao la "Mét dßng xanh ch¶y m·i ®Õn v« cïng". Yªu biÕt mÊy
"Khóc h¸t s«ng quª" ®· cho ngêi lÝnh mét khóc tù t×nh, mét kû niÖm
d»n lßng theo n¨m th¸ng.
CHƠI VƠI !
Truyện
ngắn
Nàng
có đôi mắt đẹp, người ta nhớ đến nàng chính là nhờ đôi mắt biết nói ấy. Nhìn
vào mắt nàng, các chàng trai như thấy nàng đang nói với mình điều gì, những tâm
sự về cuộc đời riêng tư của nàng hay là kỷ niệm về một thời thiếu nữ ngây thơ
trong trắng trên ghế giảng đường của trường đại học. Ánh mắt của nàng làm xao
xuyến bao trái tim các chàng trai. Mỗi buổi sáng đến cơ quan có nàng bầu không
khí như ấm cúng hơn, thoải mái hơn. Nàng bước vào phòng làm việc, mùi thơm và
gió mát như ùa theo. Đôi bàn tay nàng với những ngón búp măng, nõn nà múa trên
bàn phím triết xuất ra những trang tài liệu rất cần cho nhiệm vụ của cơ quan.
Nàng làm việc say mê, nhiệt tình và có chất lượng. Nàng xinh sắn và thông minh,
giao tiếp có duyên nên ai cũng mến. Sức hút của nàng đối với phái mày dâu rất
khá, ban đầu chỉ là cảm tình, ngưỡng mộ, nhưng sau đó quý nàng, thầm yêu trộm
nhớ về nàng. Người ta đi qua, đi lại ngắm nàng, nhìn trộm nàng một chút, sững
sờ khi bắt gặp ánh mắt của nàng ban tặng. Ai đó được hưởng tý chút nụ cười của
nàng quả là điều may mắn.
Nhà
nàng cách nơi làm việc của cơ quan khá xa, một ngôi nhà hai tầng toạ lạc trên
một quả đồi thấp rất đẹp, xung quanh cây cối xanh tươi và một khoảng sân rộng
chứa đầy ánh mặt trời xanh biếc. Nàng đã có chồng và con hạnh phúc. Anh ta yêu
nàng lắm, mỗi buổi đi làm nàng thường mặc chiếc váy lửng sặc sỡ mầu hoa, lộ rõ
đôi chân trần trắng muốt. Nàng ngồi trên chiếc xe ô tô do chồng làm tài xế đưa
nàng đến cơ quan, chờ cho nàng khuất hẳn sau cánh cửa phòng làm việc xong chiếc
xe mới quay đầu đi nơi khác. Tám giờ vàng ngọc nàng chăm chỉ, cặm cụi hoàn
thành các công việc được giao. Là người thông minh, có hiểu biết xã hội rộng,
nàng nắm chắc kiến thức chuyên môn, thành thạo vi tính, biết đôi chút Tiếng
Anh, am hiểu lịch sử "Đông tây kim cổ" nên nàng nói chuỵện hấp dẫn và
lôi cuốn. Khi nàng cất tiếng nói đôi môi
hình hạt lúa của nàng như ngậm tia nắng trời phát ra thứ âm thanh dịu nhẹ, dễ
nghe. Cách nói của nàng như tâm sự với người đối diện. Rất muốn ít tiếp xúc với
mọi người để tập trung cho công việc, nhưng trong cơ quan cánh mày râu vẫn tìm
mọi lý do để trêu chọc nàng, có anh gặp nàng chỉ lúng túng dăm ba câu chẳng có
đầu, có cuối. Nàng biết đó là cái cớ để họ tiếp cận nàng, lâu dần nàng quen với
điều đó và thấy rất vui. Nhìn ánh mắt của mọi người nàng thấy họ tôn vinh,
ngưỡng mộ mình. Tuy vậy, chỉ về đến nhà là nàng thích nhất, con trai của nàng
chạy ra đón, sách túi, cất mũ giúp mẹ, nàng cảm thấy hạnh phúc quá chừng. Nàng
nghĩ không có bất kỳ cái gì đổi lại được niềm vui này. Mỗi ngày, gia đình xum
họp sau bữa cơm chiều, con trai ngồi vào bàn học những bài đầu tiên của chương
trình lớp một thì hai vợ chồng nàng ngồi xem chương trình thời sự trên ti vi.
Cuộc sống gia đình công chức của nàng quả là hết sức tươi đẹp trôi đi trong
tình thân ái của bà con xóm giềng lân cận.
Ở
phòng làm việc kế bên xuất hiện một chàng trai mới tốt nghiệp đại học về cơ
quan công tác. Cậu ta tên là Lợi trông bộ dạng nhanh nhẹn và tháo vát. Mới vào
nghề, nên Lợi chưa thạo việc văn phòng, thỉnh thoảng lại sang phòng nàng hỏi đủ
thứ việc. Thông cảm với người mới đến, nàng nhiệt tình giúp đỡ chỉ bảo. Càng
ngày Lợi càng gắn bó với nàng hơn, nhận được công văn cấp trên về sang hỏi nàng
cách thực hiện; chuẩn bị xây dựng kế hoạch mới sang hỏi nàng nên bắt đầu tư
đâu; hoàn thành một văn bản sang hỏi nàng như thế đã được chưa và đề nghị nàng
cho ý đóng góp đúng sai. Ngày nối ngày hai chị em quấn quýt bên nhau, giúp nhau
hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao. Lợi được sự giúp đỡ của nàng nên tiếp cận
công việc nhanh, việc làm hiệu quả. Thủ trưởng cơ quan tin tưởng vào cậu ta,
chỉ một thời gian ngắn Lợi đã trở thành nhân viên chính thức của cơ quan, đóng
vai trò quan trọng của bộ phận kế hoạch. Lợi rất biết ơn nàng, nhiều lần cậu ta
mua quà tặng và cảm ơn nhưng nàng không nhận. Điều đó lại càng làm cho Lợi
ngưỡng mộ nàng hơn, mọi việc lớn nhỏ Lợi vẫn nhờ nàng cố vấn. Lợi quý mến nàng
thật sự, nàng có vấn đề gì cần sự giúp đỡ, Lợi xung phong làm giúp. Hai chị em
thân thiết với nhau như người nhà, Lợi có xe máy nên tình nguyện đưa nàng đi về
mỗi buổi, đỡ vất vả cho chồng nàng hơn. Rồi Lợi giúp nàng đưa thằng bé đi học ở
trường tiểu học, thậm chí đưa nàng đi siêu thị sắm hàng hoá vật dụng gia đình,
may quần áo trang phục. Mỗi khi mua được chiếc áo đẹp, mặc vào nàng nhờ Lợi
ngắm xem mình mặc có đẹp không? Cứ thế dần dần Lợi trở thành một phần quan
trọng trong cuộc sống đời thường của nàng. Lợi coi nàng như sư phụ, như người
chị của mình, coi gia đình nàng như gia đình mình, nàng coi Lợi như em trai
vậy; mọi vấn đề trong cuộc sống, trong sinh hoạt chẳng cần giữ ý gì cả. Mọi
người trong cơ quan ai cũng cảm phục trước tình cảm của họ.
Nàng
mặc một chiếc áo sơ mi trắng, cổ rộng, eo thắt làm cho bộ ngực tròn căng, nhô
cao, một mảng rộng phía trên trắng ngần lộ rõ, gợi cảm, đúng là "Gái một
con trong mòn con mắt". Buổi trưa, nhà xa nàng không về, biết Lợi đang gấp
rút hoàn thành bản công văn trình thủ trưởng cơ quan. Cửa mở, nàng đến bên Lợi,
từ phía sau lưng, nàng cúi xuống sửa giúp bản kế hoạch trên máy vi tính giúp
Lợi. Đôi tay của nàng thoăn thoát gõ bàn phím, nhấc chuột điều chỉnh máy rất
thành thạo. Thỉnh thoảng thân thể của nàng chạm khẽ vào vai Lợi, như bị điện
giật, Lợi nhẹ tránh, nàng cũng không để ý chỉ chú ý sửa văn bản. Lợi cố tình
làm ngơ nhưng bản năng của một cậu con trai chưa vợ cứ trỗi dậy. Bầu ngực tròn
của nàng đôi khi tỳ vào khuỷu tay, Lợi cố tránh nhưng trong người cứ thấy rạo
rực cả lên. Từ hôm đó, Lợi hay để ý đến nàng, mọi hành động giúp đỡ lẫn nhau
không tự nhiên như trước nữa. Lợi thấy thích nàng, vẫn những lần đưa đón nàng
đến cơ quan, đưa con nàng đi học thay chồng. Tình cảm của hai chị em, một người
phụ nữ đã có con và một chàng trai chưa vợ thì có gì mà phải câu nệ, phải giữ
gìn, đó là tình cảm chị em kia mà, nàng nghĩ như vậy. Nhưng mà gần đây nàng có
cảm nhận mơ hồ là Lợi thích ngắm nhìn nàng. Khi được đóng góp về cách ăn mặc
của nàng, Lợi cho rằng nằng mặc áo chẽn, hở cổ sẽ đẹp hơn. Nàng không nghĩ xấu
về Lợi vì nàng biết rằng tuy mình đã có chồng con nhưng vẫn được các chàng trai
chú ý. Đến như Lợi một sinh viên mới tốt nghiệp đại học ra trường kiếm đâu
chẳng được một cô vợ sinh đẹp như mộng mà vẫn còn thích ngắm nhìn nàng nữa là.
Thôi cứ để cho cậu ta ngắm, cũng tốt vì mỗi lần cậu ta nhìn nàng là một lần
kiểm nghiệm tính hấp dẫn của thân thể mình với cánh con trai. Không sao cả, là
phụ nữ nếu không được người đàn ông nào để ý thì còn có ý nghĩa gì, chán chết.
Một
lần khác, trong giờ nghỉ trưa, khu làm việc
vắng vẻ, chỉ còn hai chị em nàng ở lại hoàn thành nốt phần việc cuối cùng của
bản kế hoạch. Lợi đọc bản thảo cho nàng soát, mệt và buồn ngủ Lợi tựa vào vai
nàng từ từ thiếp đi, hơi thở nóng hổi của Lợi phả vào cổ nàng làm nàng thổn
thức. Cả nể, nàng để im, Lợi lơ mơ ngủ, một mùi thơm của da thị đàn bà xộc vào
thị giác làm cho Lợi liều lĩnh, đôi tay cứ thế lần mò, khám phá công trình
tuyệt mĩ của tự nhiên. Thân thể hừng hực của người con trai chưa vợ xiết chặt.
Nàng từ từ ngả mình trên ghế tựa, hai cặp môi tìm đến với nhau, Lợi như người
đi trên sa mạc khát nước, được thưởng thức thứ nước ngọt có ga, Lợi hối hả uống
ừng ực cho đã cơn khát. Con trai chưa vợ có khác, hối hả tìm, hối hả khám phá,
hối hả thưởng thức, sức mạnh của tuổi trẻ làm cho nàng không thể rứt ra được,
nàng như tan biến trong Lợi, dâng hiến cho Lợi mà không hề tính toán. Được đà,
Lợi cứ thế tiến sâu vào sự khoái cảm đầu đời của mình một cách bản năng. Thưởng
thức trái cấm xong, Lợi như bừng tỉnh, giật mình hoảng sợ, giữa ban trưa sợ
người khác nhìn thấy, sợ thân phận của mình là em sao dám đụng vào sự thiêng
liêng của chị. Nhìn ánh mắt thông cảm và tha thứ của nàng, Lợi thấy yên tâm.
-
Chị bắt đền em đấy, chị ngủ quên thế mà em lại dám...!
-
Em, em không dám, tự nó... đấy chứ!
-
Chết rồi cửa vẫn mở, thế mà em liều thật ?
-
Khổ quá, chị ơi, em không cưỡng nổi. Từ nay em xin chừa.
-
Chị không cho chừa đâu nhé! Thôi về phòng đi, sắp đến giờ làm việc buổi chiều
rồi đấy. Trưa mai ở lại giúp chị hoàn thành nốt văn bản nhé.
Lợi
về phòng lại việc mà người cứ lâng lâng. Từ hôm đó trở đi hình ảnh nàng cứ lung
linh trước mắt Lợi. Tối về trong khu tập thể, trên chiếc giường cá nhân Lợi cứ
thổn thức mãi, thân thể đầy đặn của nàng, hơi thở nóng hổi, bộ ngực phập phồng,
làn môi ngọt lịm, đôi mắt gợi cảm của nàng mới đẹp làm sao, Lợi cứ ngất ngây
không tài nào ngủ được. Hay là mình yêu rồi nhỉ? Nàng đã có chồng con, làm sao
có thể yêu được khi nàng được nữa. Trai chưa vợ lấy gái đã có chồng có được không?
Không bao giờ có sự ngược đời như thế phải không? Lợi lẩm bẩm cố quên đi, nhưng
hình ảnh nàng vẫn cứ lung linh, chỉ mong sao trời chóng sáng để đỡ nghĩ về
nàng. Ngày tháng thấm thoát trôi qua, Lợi và nàng quấn quýt bên nhau, người
ngoài tưởng như hai chị em kết nghĩa, nhưng thực tế hai người cứ vụng trộm gặp
nhau vào những buổi trưa cơ quan vắng vẻ, rồi họ sống với nhau những phút giây
vợ chồng vội vã như vậy. Càng vụng trộm họ lại càng thiếu thốn, càng khát nhau
như ruộng hạn khát trời mưa.
Hôm
ấy, Lợi đưa nàng vào nhà nghỉ ở thành phố, sống những giây phút vợ chồng. Không
úp mở, Lợi đổi cách xưng hô với nàng.
-
Thôi em làm vợ anh nhé!
- Có mà trời xập, gái có con lại lấy một trai tơ
chưa vợ bao giờ, thôi bỏ cái ý định hão huyền ấy đi, để thế cho đẹp. Nàng khẳng
định như vậy.
-
Dù thế nào anh cũng cứ muốn lấy em, không có em anh không lấy vợ nữa, không có
em anh sống chẳng có ý nghĩa gì.
-
Làm thế nào để lấy anh được, khi em đã có chồng? Nàng cũng đổi cách xưng hô và
hỏi lại như vậy.
-
Có chồng thì mặc có chồng, anh vẫn cứ lấy em làm vợ.
-
Thật không?
-
Thật đấy, em yêu.
-
Đùa, không bao giờ có điều ấy, con của em để đi đâu?
-
Em là vợ anh, thì con em cũng là con anh.
-
Thế phải ly dị chồng à?
-
Đúng đấy, em ly dị chồng xong, anh sẽ cưới em liền.
*
Cánh
cửa phòng nghỉ bật mở, Lợi và nàng lồm cồm bò dậy, không thể tin nổi vào mắt
mình, phía cửa mở là chồng nàng và một người đàn ông cao lớn hùng hổ xông vào
giơ tay tát Lợi. Nàng lao ra che và đỡ cho Lợi khỏi bị cái tát trời giáng đó.
Chồng nàng dừng tay và hết sức kinh ngạc khi thấy vợ mình dám đỡ đòn cho tình
địch. Chàng ỉu sìu thất vọng không thốt nên lời, đành ra hiệu cho người bạn
cùng đi lôi tuột nàng ra xe chở về gia đình mình, để lại Lợi đứng trơ như khúc
gỗ, ngượng ngùng thu dọn đồ đạc, trả tiền phòng và lầm lũi trở về cơ quan công
tác chờ đợi một tai vạ sẽ ập xuống vào đầu mình. Nhưng sau đó mọi việc rơi vào
im lặng không hề có điều tiếng gì xảy ra, Lợi thở phào nhẽ nhõm, đau đớn và suy
nghĩ "có lẽ từ nay mình sẽ mất nàng, sự việc bại lộ như thế, còn mong ước
có nàng sao được". Nàng xin nghỉ phép một tháng không đến cơ quan. Lợi
thấy nhớ nàng quá, những ngày tốt đẹp vừa qua, sao mà êm ái, nhẹ nhàng, dễ chịu
đến thế, nó như liều thuốc gây nghiện làm cho Lợi không tài nào quên được. Lợi
như muốn ngay lúc này được ào đến nhà nàng, xem nàng sống ra sao, chồng nàng
đối xử với nàng có tệ lắm không. Nếu nàng đồng ý, Lợi sẽ cùng nàng trốn nhà cao
chạy, xa bay đến một vùng đất xa xôi nào đó sống cuộc sống tự do và hưởng thụ
một tình yêu nòng ấm, thiên đường của hai người.
*
Nàng chỉ ngồi không nói, chồng nàng
thẫn thờ đi lại, có lúc như muốn gầm lên, có lúc lại dịu dàng thỏ thẻ. Chàng
thấy mình bị phản bội và vừa mất đi một
tài sản vô cùng quý báu trên đời này chẳng gì bù đắp được. Với tội lỗi của nàng
theo tập quán Việt Nam ,
đủ điều kiện để chàng chia tay mà không hề vương vấn, nhưng còn con trai và gia
đình hạnh phúc sao đành. Tình cảnh lúc này chàng chẳng dám làm gì cả, sau những
ngày im lặng không nói năng gì, cuối cùng chồng nàng đề nghị.
-
Bây giờ em có cần gia đình này nữa không? Em đã phản bội anh nhưng vì con anh
cho qua tất cả.
-
Tuỳ anh, mọi việc anh đã biết, nếu anh không chấp nhận, em đành phải chia tay.
Còn nếu anh tha thứ, em vẫn mãi là mẹ của con- nàng nhỏ nhẹ.
Thời
gian im lặng khá lâu, cuối cùng chồng nàng lên tiếng.
-
Thôi được, em phải hứa là không bao giờ được phản bội anh nữa. Em nên biết điều
để sống.
- Em đồng ý, cũng mong anh từ nay đừng bao giờ
nhắc lại chuyện cũ nữa nhé.
Hết
kỳ nghỉ phép, chiếc xe ô tô của chồng lại đưa nàng đến công sở làm việc. Người
ta lại thấy gia đình nàng hạnh phúc, chồng quan tâm, chăm lo đến mọi hoạt động
đời sống, công tác của nàng. Nhiều người trong cơ quan, nhìn thấy cảnh ấy thèm
muốn có được cuộc sống hạnh phúc như vậy. Vì nàng nghỉ phép dài ngày, trong cơ
quan cũng có một vài tin đồn dị nghị mong manh không tốt về nàng, nhưng thấy
cảnh hạnh phúc của vợ chồng nàng, mọi suy nghĩ xấu về dần dần không còn nữa.
Công
việc nhiều, cả tháng nghỉ phép bị ùn lại, nàng ra sức làm cho kịp với tiến độ và
nhiệm vụ cấp trên giao. Có hôm hết giờ, chưa hết việc, chồng nàng chờ đón cả
tiếng đồng hồ mà nàng vẫn chưa rời khỏi máy vi tính. Nhiều lần như vậy, nàng
đành phải ở lại cả buổi trưa để làm việc như trước kia. Chính những buổi trưa chết tiệt ấy đã làm cho nàng khó
giữ được mình, nàng ngồi một mình đánh máy, Lợi đến từ lâu, đứng phía sau ngắm
cái cổ trắng nuốt của nàng, rồi bạo dạn đặt lên đó nụ hôn nóng hổi, nàng quay
lại tỏ vẻ không bẳng lòng.
-
Đừng làm phiền chị nữa em!
-
Anh yêu em, thật sự anh không thể thiếu em được- Lợi thổn thức.
-
Không thể vì tình cảm bồng bột của em mà chị lại đánh đổi cả hạnh phúc gia đình
của mình sao, em hãy dừng lại đi vẫn chưa muộn.
-
Anh yêu em thật lòng mà, anh sẵn sàng đổi cả sự nghiệp để được sống với em, cho
dù năm tháng đó có ít ỏi đến mấy cũng được.
-
Thôi em, hãy đổi lại cách xưng hô đi nhé, chị biết tình yêu "lửa rơm"
của em thì được mấy hôm. Có dám cưới chị làm vợ thật không?
-
Dám chứ, nếu em bỏ chồng, anh sẽ cưới em ngay. Bố mẹ anh đã mua cho anh một
ngôi nhà ở thành phố rồi, em lấy anh đôi ta và con sẽ về đấy để ở.
-
Thôi đừng tán dóc và hão huyền nữa.
-
Anh nói thật đấy. Kiếp này chỉ có em là vợ của anh mà thôi. Nếu không lấy được
em, coi như anh không có vợ.
-
Ai mà tin được lời nói của bọn con trai, nhất là của bọn choai choai.
-
Tình yêu của anh sẽ chứng minh cho em điều đó "không có em bầu trời như
không có nắng, không có em chim trời như không có đôi, không có em đất trời như
vô nghĩa, trên đời này như không có yêu thương".
Vừa
khe khẽ hát, Lợi vừa vít cổ và đặt đôi môi đang khát khao của mình lên đôi môi
tươi thắm của nàng, nàng yên lặng và không phản ứng. Được đà, Lợi vòng tay ôm
nàng đứng dậy, hai cánh tay cường tráng ghì chặt nàng vào lòng và hôn tới tấp
lên môi lên cổ... cả hai từ từ ngả xuống chiếc bàn gần đấy làm tung toé cả đống
tài liệu xuống thềm.
*
Toà
án gọi hai vợ chồng nàng đến.
Toà
tiến hành hoà giải giữa hai người, cố níu lại hạnh phúc gia đình mỏng manh của
nàng bằng cách thuyết phục nàng hãy vì tương lai của con mà rút lại đơn xin ly
hôn. Nhưng nàng đã quyết định rồi, gửi đơn đến toà án huyện, coi như nàng đã
chính thức từ chối hạnh phúc đó. Quyết định chia tay với chồng, nàng hy vọng
toà sẽ sử cho nàng được nuôi đứa con yêu quý của mình, đổi lại nàng không lấy
bất kỳ một thứ tài sản chung nào của gia đình kể cả ngôi nhà hai tầng và khuân
viên đẹp đẽ do chính tay nàng góp công xây dựng. Biết nàng kiên quyết từ bỏ
hạnh phúc mà bấy lâu nay anh cố níu kéo, chồng nàng miễn cưỡng chấp nhận sự ly
tán. Toà xử cho chồng nàng được quyền nuôi đứa con trai vì cháu đã lớn. Rời
khỏi toà án, nàng vội vã về nhà, nhìn thấy đứa con yêu quý của mình, nàng không
thể nào ngăn nổi nước mắt, nàng khóc không hiểu vì phải xa con. Thấy mẹ khóc,
tuy không hiểu vì sao nhưng nó xà vào lòng mẹ khóc tức tửi, đâu biết rằng gia
đình hạnh phúc của nó từ nay san đàn, xẻ nghé.
-
Nín đi con trai của mẹ, từ nay con phải ngoan nhiều hơn nhé, buổi sáng con phải
dậy xớm để đi học, mẹ không được gọi con nữa đâu.
-
Sao mẹ lại khóc. Con không thích mẹ khóc bao giờ.
-
Từ hôm nay mẹ mãi xa con,hàng ngày con phải tự tắm rửa và lo lấy mọi việc cho
bản thân con nhé.
-
Con không cho mẹ đi đâu cả. Mẹ phải ở nhà với con.
-
Muộn rồi con ạ, xa mẹ con có nhớ không?
-
Con yêu mẹ lắm! Làm sao mà mẹ không ở nhà nữa. Có phải ai bắt nạt mẹ, khi nào
con lớn con sẽ đánh chết họ.
-
Thôi để mẹ vào nhà chuẩn bị đồ đạc, tý nữa chú Lợi sẽ đến đón mẹ đi.
-
Không được, con không cho ai đón mẹ cả, mẹ phải ở nhà với bố và con.
Nàng
gạt nước mắt, buông con ra vội vã vào nhà chuẩn bị hành trang.
*
Chiếc
xe tắc xi bốn chỗ đưa nàng xuôi về thành phố, nàng đến ở nhờ nhà chị gái, chờ
một thời gian nữa Lợi đến cưới nàng và đưa nàng về nhà như lời Lợi đã hứa. Nàng
xin thôi việc ở cơ quan cũ, chờ xin việc mới ở thành phố. Mọi vui buồn hạnh
phúc nàng gửi lại nơi tỉnh lẻ để đến với Lợi giữa phồn hoa đô thị. Cũng vì quan
hệ không lành mạnh giữa Lợi và nàng nên anh ta bị kỷ luật không được làm ở
phòng kế hoạch, phải đến làm việc ở một tỉnh vùng sâu, vùng xa. Từ đó Lợi ít có
điều kiện về thăm và chăm sóc nàng như trước. Mọi dự định sẽ cưới nàng sau khi
ly hôn dần dần khó trở thành hiện thực. Giờ đây, biết được mối tình ngang trái
của nàng và Lợi, gia đình anh ta ra sức ngăn cản. Họ tìm mọi cách để không cho
Lợi có điều kiện gặp nàng, "Ai đời trai tơ chưa vợ lại yêu và lấy người
đàn bà đã có con và bị chồng ly dị" - người ta nói như vậy. Ngôi nhà ở
thành phố dự định cho Lợi khi cưới vợ cũng bị thu lại. Mọi người thân không có
ai ủng hộ cuộc hôn nhân giữa Lợi và nàng. Lợi đứng trước rất nhiều sức ép cả về
tinh thần và vật chất, không thể nào giữ được mối quan hệ và tình cảm thắm
thiết với nàng như trước nữa. Nguy cơ tan vỡ mối tình với Lợi đã hiện ra trước
mắt.
Nàng
bâng khuâng trước hiện thực phủ phàng, Lợi chưa phản bội nàng, nhưng mọi điều
kiện để đến với nàng hầu như bế tắc. Nếu lấy nàng, về thành phố sống Lợi sẽ mất
việc, trong khi đó nàng chưa xin được việc làm, cuộc sống sẽ ra sao khi không
có tiền, có nhà. Tự nhiên nàng thấy chơi vơi. Nàng giật mình nhận ra mình đã
ngoài 30 tuổi, còn Lợi thì trẻ quá. Hạnh phúc liệu có đến được với nàng không?
nếu có chắc cũng không thể bền vững được. Nàng tự trách mình sao lại mù quáng
trước tình yêu ngang trái thế. Tại sao mình không nghĩ rằng tình yêu "lửa
rơm" của Lợi sẽ xớm tắt lịm. Nàng thật sự thấy chơi vơi.
Tiếng khóc của đứa con trai yêu dấu văng vẳng, làm
tim nàng đau nhói.
Tháng 11-2009
HẠT MUỐI VÀ BIỂN CẢ
Hạt muối nhỏ nhoi giữa lòng biển cả, tan biến đi khi
mỗi đợt sóng triều dâng, chính điều đó góp phần làm cho biển mặn mòi, ấm áp.
Hạt muốn vẫn ngàn đời sinh ra từ biển, được biển nuôi dưỡng, chở che và nhọc
nhằn, vần vũ cùng với những con sóng tung bọt trắng ngần. Trăm con sông đều đổ
vào biển cả, nhưng chỉ khi về với biển nước mới được hưởng sự mặn mòi, sông góp
nước cho biển, nhưng muối thì phải tự biển sinh ra. Không có muối sao gọi là
biển, biển mênh mông nhường ấy sẽ là vô nghĩa khi nước nhạt phèo. Từng hạt muối
nhỏ nhoi tạo nên tính chất của biển cả. Từng con thuyền đánh cá đi về đều tự
hào có biển, con thuyền điểm xuyết cho biển đẹp hơn, nhưng muối và nước sẽ cấu
thành biển cả. Thiên nhiên tự hào có biển, con người lại rất cần muối và nước
cho cuộc sống.
Tôi đến với nghề Tuyên
huấn cũng giống như hạt muối nhỏ nhoi góp sức mình vào lòng biển cả. Biển mênh
mông là thế, hạt muối tôi bé nhỏ biết nhường nào, nhưng những con thuyền và
cánh hải âu trên biển thì không thể xa rời biển thân yêu và hạt muối tôi cũng
góp sức nâng cánh chim thân yêu và đẩy thuyền đi trong mỗi sớm mỗi chiều.
Thủa học sinh, hai từ
Tuyên huấn tôi nghe xa vời vợi, nhưng tôi ngưỡng mộ bác Tố Hữu- nhà thơ cánh
chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam là Trưởng ban Tuyên huấn Trung
ương thời đó. Cảm nhận của tôi, thơ có nghĩa là bác Tố Hữu; bác Tố Hữu là nhà
thơ và là nhà Tuyên huấn, tôi thấy yêu thơ và yêu Tuyên huấn. Tình yêu đó được
nhân lên qua năm tháng học hành dưới mái trường XHCN và được đọc thơ Tố Hữu, từ
“Việt Bắc”, “Gió lộng” đến “Việt Nam máu và hoa” rồi “Những nhành xuân” đều in
đậm trong trái tim tôi. Sau này tôi mới hiểu rằng Tuyên huấn đâu chỉ là thơ,
thơ chưa phải là Tuyên huấn. Nhưng con đường tôi đến với Tuyên huấn có một phần
đóng góp của thơ, đó là bài thơ do chính mình sáng tác đọc trước buổi biểu diễn
văn nghệ quần chúng. Đó là một kỷ niệm đẹp và đáng yêu biết mấy của tôi đối với
Ngành Tuyên huấn.
Tôi đi bộ đội từ trước ngày chiến tranh biên giới phía
Bắc nổ ra. Khi “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới” thì đơn vị tôi lên
tầu hành quân ra Bắc, trong đội ngũ điệp trùng của người lính bảo vệ biên cương
có tôi cầm súng, góp thêm sức mạnh chống kẻ thù xâm lăng. Những ngày tháng ở
biên cương tôi càng hiểu thêm nhiều về ý nghĩa của lẽ sống và tình yêu đất
nước, quê hương, tình yêu con người, nỗi trăn trở của những người bảo vệ đất Việt
quê hương. Trong gian khổ hy sinh đều rất cần tiếng hát, tiếng thơ, rất cần
những lời động viên, chính lúc đó chúng tôi nhận được sự quan tâm to lớn của
Đảng, Nhà nước và quê hương nên chúng tôi đã chiến thắng giặc ngoại xâm và
chiến thắng chính mình-đó chính là Tuyên huấn.
Rồi tôi được đi học sỹ
quan để trở thành người cán bộ quân sự của Đảng, tôi tự hào biết mấy, nên đã ra
sức học tập, rèn luyện để được cống hiến tuổi trẻ, sức lực và trí tuệ của mình
vì sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Tốt nghiệp ra trường tôi được làm cán bộ
quản lý giáo dục cấp phân đội của một trường sỹ quan lớn của Quân đội, rồi làm
giảng viên bắn súng bộ binh dạy học viên đào tạo sỹ quan, sau đó tôi được điều
lên làm trợ lý tuyên huấn của Nhà trường. Ôi hai từ Tuyên huấn mới ngày nào còn
nghe xa lạ làm sao mà đến bây giờ đã trở thành hiện thực đối với tôi. Thế là
tôi chập chững bước vào nghề bằng cả niềm say mê nhiệt huyết của con tim, khối
óc của mình. Khi bắt tay vào nghề tôi mới nhận thức được làm Tuyên huấn đâu chỉ
có chăm chỉ, nhiệt tình là được mà còn phải có năng lực, trí tuệ và năng khiếu
thì mới hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Vào nghề, tôi háo hức bắt tay làm
việc, thi đua-khen thưởng nghe ra có vẻ là chỉ mang miềm vui đến cho nhiều
người, nhưng thực tình công việc không hề đơn giản chút nào. Có làm nghề mới
hiểu hết nghề, nhiệm vụ chuyên môn của tôi khi chập chững vào ngành Tuyên huấn
là được làm công tác thi đua khen thưởng. Tôi biết, thi đua khen thưởng là một
nhiệm vụ rất quan trọng, là một bộ phận không thể thiếu được của hoạt động công
tác đảng, công tác chính trị trong quân đội. Trong hoạt động thi đua phải tạo
nên được phong trào đua đuổi vượt lẫn nhau nhưng không phải là ganh đua, là
cạnh tranh mà là thi đua XHCN, thi đua yêu nước, thi đua quyết thắng. Ở nhà trường
đào tạo sỹ quan có làm tốt công tác thi đua khen thưởng thì mới hoàn thành tốt
nhiệm vụ giáo dục-đào tạo được. Suy rộng ra đất nước có phát triển được thì
khen nhiều hơn phạt; Quân đội có mạnh không thì khen thưởng phải nhiều hơn xử
lý kỷ luật. Tôi cũng hiểu rằng nhà lãnh đạo và người chỉ huy giỏi là người biết
sử dụng có hiệu quả công tác thi đua khen thưởng, trong đó thi đua phải có khen
thưởng, mà khen phải đi đôi với thưởng. Tuy nhiên, khen thưởng phải đúng người,
đúng việc, khen sao cho động viên và phát huy được tính tích cực của quần
chúng. Nếu khen thưởng không đúng chẳng những không có tác dụng tích cực mà có
khi lại làm thui chột cả phong trào. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng viết:
“Em có
tài nấu nướng
Anh có tài ngợi
khen”
Tôi làm trợ lý
giúp cho người lãnh đạo, chỉ huy của đơn vị về công tác thi đua khen thưởng,
tôi biết đây là một vinh dự những cũng gặp đầy rẫy những khó khăn phức tạp. Làm
sao để góp phần thúc đẩy phong trào thi đua quyết thắng của đơn vị phát triển
và theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Vì yêu nghề Tuyên huấn nên tôi yêu việc
thi đua khen thưởng và tôi say mê lao vào công việc như một người lính xung
kích trên mặt trận. Có những lúc thăng trầm, có những khi thất bại, những lúc
thành công. Mười mấy năm trong nghề, tôi được hưởng cảm giác nhẹ nhàng thanh
thản khi mình góp được tí chút công sức và trí tuệ thúc đẩy phong trào thi đua
đi lên, cũng có khi buồn thê thảm khi mình chưa làm chọn vẹn một công việc
chuyên môn đáng lẽ ra người trợ lý thi đua khen thưởng phải làm tốt. Cũng giống
như hạt muối đã góp phần làm nên vị mặn cho đại dương bao la, nhưng cũng thật
là chát đắng khi giữa mêng mông nước biếc của biển khơi mà con người không thể
múc lên uống được. Những năm tháng ấy tôi hoà mình vào tập thể, lặng lẽ âm thầm
làm việc, lặng lẽ âm thầm chịu đựng tiếng khen chê. Rồi những kỷ niệm ùa về,
động lại mãi với thời gian, theo suốt cuộc đời, dệt nên những hoa văn điểm thêm
cho nét đẹp của cuộc sống. Tôi vẫn thường tự hào nói với mọi người trong đơn vị
mình là người may mắn, luôn mang niềm vui đến cho nhiều người. Tức là nhiệm vụ
của tôi là làm công tác thi đua khen thưởng, tôi giúp người chỉ huy tổ chức
phong trào thi đua quyết thắng, duy trì phong trào, kiểm tra đôn đốc, rồi theo
dõi tổng hợp khen thương, rà soát, nâng lên đặt xuống kết quả thi đua, bình xét
khen thưởng, soạn thảo các quyết định để người chỉ huy ký khen thưởng và như
vậy nhiều tập thể và cá nhân được khen thưởng, tôi cũng vui lây niềm vui của
họ. Họ thật xứng đáng với những thành tích đã đạt được trong công tác. Tuy nhiên,
một số cá nhân chưa đủ tiêu chuẩn để được khen gặp tôi họ chẳng vui chút nào,
ai cũng cho rằng tại tôi soi mói khuyết điểm của họ, nâng lên đặt xuống, “bới
bèo ra bọ” để tập thể và cá nhân của họ không được khen, tất cả chỉ tại cái anh
trợ lý phụ trách công tác thi đua khen thưởng mà thôi. Tôi cũng tự thấy mình cứ
vướng víu điều gì đó rồi cứ lăn tăn mãi, “bởi xã hội và con người tốt đẹp phải
khen nhiều hơn phạt” kia mà. Trách nhiệm của tôi là người nòng cốt đi xây dựng
phong trào, xây dựng điển hình tiên tiến, để có nhiều “người tốt, việc tốt”.
Trong cuộc sống và công tác, tôi đã làm được đến đâu? Vì vậy, tôi càng phải cố
gắng, càng phải hết mình với công việc, nhưng sức lực nhỏ bé của mình có giới
hạn, tác dụng được đến bao nhiêu tôi chưa có lời giải đáp. Chỉ biết rằng yêu
nghề Tuyên huấn thì phải nặng lòng với nghề, trăn trở với nghề mới tốt lên được
mà thôi. Thế rồi tôi lại tiếp tục bước đi nặng nhọc trên con đường đầy khúc
khuỷu gập nghềnh của nghề ấy. Tôi giống như người đang bơi giữa đại dưong bao la
cần phải không biết mệt mỏi, phải thắng được sóng gió, vượt qua được bão tố
phong ba thì mới đến được bến bờ bình yên và tôi cứ bơi trên dòng nước của nghề
thi đua khen thưởng đến khi tuổi quân, tuổi đời trải dài qua năm tháng.
Cuộc sống không đơn giản chỉ có nói và làm; nói được và làm được là điều
quá tốt. Nghề tuyên huấn là phải nói thật tốt để cho mọi người nghe và làm thật
tốt để cho mọi người theo, điều đó ai cũng hiểu. Nhưng tôi vẫn cứ trăn trở băn
khoăn khi thấy cuộc đời này nhiều cái vẫn chưa thành công, bởi hiệu quả của
công tác thi đua khen thưởng đôi khi còn thấp. Phong trào được phát động liên
tục nhưng thi đua thì ít mà ganh đua thì nhiều, cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đang được các tập thể và cá nhân hưởng ứng
sôi nổi, tuy nhiên học tập đạo đức, tấm gương của Bác thì tốt, nhưng làm theo
được ít lắm, thậm chí có việc còn đi ngược lại với tư tưởng, đạo đức của Người
thì làm sao chúng ta thấy hài lòng và không trăn trở. Thi đua khen thưởng là để
xã hội tốt hơn, để con người hoàn thiện hơn, hướng tới cái tốt, hướng tới cái
“chân, thiện, mỹ” và cũng để xây dựng con người mới XHCN. Đất nước đang trên đà
phát triển, thi đua và cạnh tranh lành mạnh là rất tốt và cần thiết, song cũng
không nên bất chấp tất cả, mỗi người hãy bằng công sức bé nhỏ của mình mà hành
động vì tập thể.
Tôi cũng vậy, Tuyên huấn nói chung và thi đua khen thưởng nói riêng đã
ngấm vào máu của mình, tôi theo nó đi suốt chiều dài năm tháng và cuộc đời
mình, 16 năm gắn bó với nghề, buồn vui trải nghiệm, kỷ niệm đan sen. Nghiệm
lại, với nghề, tôi thấy mình như hạt muối nhỏ nhoi giữa lòng biển cả. Đại dương
chính là mái trường quân sự nơi tôi công tác, là nghề tuyên huấn tôi đã làm
trong những năm tháng qua. Ở đó đã nuôi dưỡng hạt muối tôi tồn tại, không có
đại dương bao la thì làm sao có hạt muối mặn mòi này. Những hạt muối, giọt nước
chúng tôi ngày đêm góp sức nhỏ bé của mình làm nên biển cả. Biển luôn hào phóng
giúp cho đời, nuôi dưỡng chúng tôi, nâng bước, chắp cánh chúng tôi đi. Trong
tôi luôn âm hưởng những vần thơ mà ngày đầu chập chững bước vào nghề tôi đã
đọc.
Và chúng ta
cũng chính là hạt muối
Hạt muối nào cũng mặn, cũng trắng trong
Mái trường ơi,
nếu người là biển cả
Xin ngàn đời vẫn sóng vỗ bao la.
LỰA LỜI
Khi mặt trái
của kinh tế thị trường luồn lách và đang tác động đến từng ngõ xóm, gõ cửa đến
từng nhà, với biết bao ồn ào, náo nhiệt. Thì cuộc sống không đơn giản chỉ đồng
tiền bát gạo mà còn rất nhiều bề bộn, lo toan. Cái được thì rất nhiều, nhưng
cái mất vẫn còn và không ít những điều trăn trở, băn khoăn.
Cuộc
đời, dẫu không cho nhau được gì, cũng cần dành cho nhau những lời nói tốt đẹp,
ngọt ngào, mang đậm chất nhân văn, để cho người đối thoại với mình dễ vừa lòng.
Ôi những câu dân ca Bắc Bộ, những khúc hát quan họ của người xưa sao mà lắng
sâu, mà chứa đựng nhiều ẩn ý đến vậy. Chẳng cần phải nặng lời, chẳng cần nài ép
mà lời muốn nói của mình vẫn được đối phương chấp nhận "Lại đây ăn một
miếng trầu, không ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng". Lời mời như vậy lẽ nào
người được mời lại không đón nhận miếng trầu ấy. Mà miếng trầu tự ngàn xưa
chính là mở đầu của mọi câu chuyên, "Miếng trầu nên duyên, miếng trầu mang
tiếng", khi nhận ăn trầu rồi sẽ sao đây, nhiều hứa hẹn đang chờ phía
trước.
Người
con gái đẹp thời nào cũng vậy đều được các chàng trai chú ý, muốn làm quen, tán
tỉnh. Rồi cũng có khi quá đà thành ra là trêu nghẹo, cản đường, giằng co, đến
nỗi mất cả việc, muộn cả buổi chợ. Vậy thì, những lời nhỏ nhẹ từ đôi môi xinh
xắn của nàng buột ra "Người ơi buông áo em ra, để em đi chợ kẻo mà chợ
trưa". Câu hát cứ nhùng nhằng, nhưng hiệu quả vô cùng, để cho em đi nhé,
nếu không sẽ bị muộn chợ thì còn mua bán được gì, lỡ việc của em ra, tội
nghiệp. Nghe câu hát ấy, người con trai nào mà chẳng chạnh lòng, dẫu không muốn
vẫn phải buông áo em ra, không cản đường nữa, nhường bước cô em, để em đi chợ.
Thế đấy, cần gì phải mắng, phải chửi, phải xô đẩy, phải lườm nguýt mới thoát
khỏi sự trêu ghẹo của cánh trai làng nghịch ngợm.
Dân
ca miền Trung dẫu có thật thà đến "Giận thì giận, mà thương càng thương",
nhưng cuộc sống vẫn cứ đậm đà tình nghĩa. Dù có lao động vất vả, năm nắng mười
mưa nhưng câu ca vẫn còn đọng mãi "Cầu cho trong ấm, ngoài êm" quả là
có ý nghĩa sâu sắc. Ở đâu cũng cần có cuộc sống bình yên để phát triển và cũng
chỉ có bình yên, có "trong ấm, ngoài êm" thì mới phát triển bền vững
được. Người miền Trung mượn câu dân ca "Đi cấy" để nói lên nỗi lòng
của mình. Bởi mảnh đất nhọc nhằn ấy huôn phải hứng chịu sự khắc nghiệt của
thiên nhiên với cái "nắng tháng sáu, bão tháng bảy", chỉ mong sao cho
êm ấm, yên vui trong xóm, ngoài làng là tốt lắm rồi.
"Lời
nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Cách nói, cách
gọi của ông cha thật là giản dị và có ý nghĩa trong cuộc sống. Người miền Nam
thường gọi "cái bát" thành "cái chén"; "cái chén"
thành "cái ly", phải chăng ý tứ của người xưa muốn sự việc "nhỏ
hoá vấn đề" chăng. Bởi cuộc sống thường nhật bao bộn bề, lo toan, kéo theo
những căng thẳng, phiền toái; nhiều sự việc nếu cứ để nguyên sự thật trần trụi
thì chẳng có lợi gì cho cuộc sống, mà có khi lại làm mất lòng nhau. Thì cứ lựa
lời mà "nhỏ hoá vấn đề" đi có tốt hơn không, cái to trở thành cái bé,
cái bé trở thành cái bé hơn chắc chắn sẽ chót lọt tất cả. Nếu mời bàn bè ăn
thêm một "bát cơm", uống thêm một "chén rượu" hoặc một
"cốc rượu" như vậy có thế là nhiều, bạn của mình khó chấp nhận, thì
ta mời bạn ăn thêm một "bát cơm", uống thêm một "ly rượu"
thì chắc bạn mình dễ chấp nhận hơn, vì chỉ một chén, một ly có lẽ không nhiều.
Cuộc
sống đẹp đẽ và phong phú, "chỉ có yêu người thì người mới yêu ta".
Không thủ tiêu đấu tranh, nhưng cũng đừng"quan trọng hoá" vấn đề mà
làm cho cuộc sống thêm phức tạp. Trong công tác vì việc chung cần phải
"phê và tự phê"sâu sắc, nhưng trong sinh hoạt có lẽ nên lựa lời mà
"nhỏ hoá vấn đề" đi, cái gì bỏ
qua được thì bỏ qua, thì cuộc sống sẽ rất mến thương.
Dành cho thiếu nhi:
CHÚ BÒ MỘNG AN AN
Chú ta là con bò mộng cường tráng và khoẻ mạnh, bốn
chân to khoẻ, cơ bắp cuồn cuộn, bước đi vững trãi, bộ móng chẵn của cả 4 chân
tròn đều, khoảng cách vừa phải. Mỗi khi bước đi, chân trước vừa nhấc khỏi mặt
đất là chân sau đã đặt đúng chỗ chân trước đó. Cứ nhìn 4 chân chắc khoẻ của chú
là biết chú ta có sức khoẻ cực tốt, nếu dùng cho việc cày ruộng hoặc kéo xe thì
thật tuyệt vời, chẳng kém gì mấy chiếc công nông ghẻ, chạy réo um cả làng, xả
khói đen mù làm bẩn cả môi trường thôn xóm. Nhìn chú bò mộng An An, người ta
thích nhất là chú có cái bờm lực lưỡng, một ụ thịt gồ cao nhô khỏi bả vai trông
mới kiêu hãnh làm sao; nửa thân hình phía trước của chú bò trông bề thế, cơ bắp
nổi lên từng cục, tạo cho dáng của chú lao hẳn về phía trước với một sức mạnh
tuyệt diệu, có thể kéo cả chiếc xe chở đầy hàng hoá nặng hàng tấn đi băng băng.
Cái đầu to của chú luôn ngẩng cao với đôi mắt sáng và hai hai cánh mũi phập
phồng hắt ra tiếng thở phì phì mỗi khi tức giận hoặc làm việc nặng. Đáng quý
nhất là chú ta có cặp sừng to, cong và nhọn, hai đầu sừng vươn lên cao và cũng
luôn hướng về phía trước như sẵn sàng đâm thẳng vào kẻ thù nếu lều lĩnh gây
chiến với mình. Với cặp sừng hoành tráng như vậy, chú doạ được khối kẻ nhát gan
và yếu bóng vía. Chú có cái mồm gầu giai đến nể sợ, cỏ khô, cỏ tươi chú nhai
tuốt; cám cò, ngô hạt, ngô cây, lúa mới ngậm đồng chú cũng chén được; khi ăn
chú vục tùng cụm cỏ nhai ngon lành, chú ăn tạp nên thân thể càng to khoẻ đồng
nghĩa với sức mạnh của chú càng được nhân lên. Chú có bộ lông vàng tím, phơn
phớt hồng quả là tuyệt đẹp; cụm lông dài ở bờm của chú đen óng, càng nhìn càng
thấy tăng thêm sức mạnh của một chú bò mộng đang tuổi trưởng thành. Mỗi tuổi
chú càng to thêm, khoẻ thêm, hùng dũng thêm, oai vệ thêm, thậm chí là tàn bạo
thêm, có thể nói chú ta là con bò đầu đàn của thôn Thạch Khoán này. Chính vì
vậy, trẻ con trong thôn đã tôn vinh chú, ngưỡng mộ chú và đặt tên cho chú là An
An, cái tên nghe vui vui như tiếng Tầu nhưng cũng là niềm tự hào và tin tưởng
về sự an toàn của đàn bò trong thôn khi có chú đứng đầu. Hình như hiểu được
điều đó, An An luôn tỏ ra xứng đáng khi cần đến sức mạnh của mình để vận chuyển
những khối hàng nặng nề chất trên xe của ông chủ giúp bà con thôn xóm khí cần
thiết. Vào mỗi vụ thu hoạch từng đống lúa, đống khoai chất đầy trên xe nặng
trĩu, chú băng băng kéo về cho mỗi gia đình, tất nhiên tiền công lao động của
chú ông chủ sẽ lĩnh về, một phần để tái sản xuất sức lao động cho chú bằng
những tải cám cò, ngô hạt, ngô cây. Sau mỗi ngày lao động cực nhọc An An được
buộc ở góc vườn chậm dãi thưởng thức những món thức ăn giầu dinh dưỡng mà cậu
chủ mang tới, rồi điềm tĩnh nhắm mắt vờ ngủ. Chú ta chỉ thấy vui và hứng khởi
khi có bày trẻ nhỏ đi học về phốc lên lưng với hai ba đứa trẻ túm bờm, nắm đuôi
tưởng tượng như đang được phi ngựa, giống như xem phim cao bồi miền Tây nước
Mỹ. Cứ thế, từng ngày chú ăn và làm không biết mệt mỏi với bao nhiêu việc. Từ
ngày xe công nông bị cấm, cả thôn Thạch Khoán này vận chuyển hàng hoá gì đều
cần đến chú ta, nhiều tấn hàng đã qua vai chú.
Nhưng bị gò bó mãi trong đôi càng xe chặt chội và
chiếc vai bò cong queo chú cảm thấy bắt đầu bực bội. An An ước mơ mình là một
chú bò đầu đàn trên đồng cỏ thì sướng biết bao. Nếu được thế, chú sẽ là con bò
mộng cai quản cả đồng cỏ mênh mông với một mầu xanh mướt mắt và no ấm trải rộng
đến tận chân trời. Ở đó, An An tha hồ tung tăng bay nhảy, thích ăn thì ăn,
thích chơi thì chơi, thích gặm cỏ thì cúi đầu gặm cỏ, thích thử sức thì húc đầu
vào bờ đất thử sức, mà cỏ tốt trên đồng bằng cái miệng gầu giai của chú mà vục
thì chẳng mấy mà no, mà đầy bụng, rồi tha hồ nhởn nhơ, thư thái. Chú ta ước ao
được ngửa mặt nhìn những cụm mây trắng lang thang trền bầu trờ cao xanh, ngắm
những bìa rừng xa xanh mát mắt, rì rào tiếng gió thổi, nghe vi vu như một điệu
đàn ngàn đời không bao giờ tắt. Trên đồng cỏ An An sẽ được hưởng những tia nắng
mặt trời buổi sáng chiếu xuống tắm cho bộ lông vàng tím, phơn phớt hồng của chú
càng thêm đẹp, được đón từng cơn gió nhẹ mơn man làn da mỗi buổi hoàng hôn tắt
nắng trên đồng. Chú mơ về cuộc sống tự do, không tù túng để được làm chủ bầy
đàn, được chạm đôi sừng to khoẻ và nhọn hoắt của mình đấu với những chú bò mộng
khác trong đàn mỗi khi khó chịu. Chú ta chắc rằng phần thắng sẽ nghiêng về
mình, bởi vì chú là chú bò đầu đàn kia mà. An An nghĩ rằng nếu chú được trở về
tự do trên đồng cỏ thì đôi sừng và chiếc đầu to khoẻ của chú sẽ ủi tung những
gò đất bướng bỉnh nhấp nhô làm vướng mắt trên đồng. Mỗi lần húc vào ụ đất, gò
đất là mỗi lần chú được thử sức với thiên nhiên được mài đôi sừng của mình cho
thêm sắc nhọn, rồi ngẫu hứng chú sẽ tung bốn vó chạy trên đồng cỏ hít thở không
khí trong lành và phóng khoáng của thiên nhiên ban tặng.
Bất chợt, chú trở về thực tại khi ông chủ đến dắt chú
vào đôi càng xe tù túng chuẩn bị cho chuyến vận chuyển hành hoá mới. Chú ể oải
bước theo ông chủ mà vẫn còn tiếc nuối với giấc mơ tự do trên đồng cỏ mà không
bao giờ trở thành hiện thực. Từ đó, chú ta hay bực dọc và giở chứng, nghe theo
lệnh của ông chủ một cách miễn cưỡng, chỉ khổ cho đôi càng xe bằng gỗ thỉnh
thoảng lại bị chú vặc đôi sừng làm sứt sẹo và thiếu thẩm mỹ đi đôi chút. Mỗi
lần kéo xe, An An lại vùng vằng khó chịu, thậm chí dùng cái mồm gầu giai của
mình vít cả bó lúa, rổ khoai chất trên xe xuống nhai ngấu nghiến, rồi giả vờ
quay người đụng chạm làm đổ cả hàng hoá của nhà nông. Chưa hết, chú ta còn cố
tình làm ra vẻ mệt nhọc chằng chịu đi nhanh như trước, số lượng chuyến xe từng
ngày cứ giảm dần, trọng lượng hàng hoá trên xe cũng nhẹ bớt. Thỉnh thoảng chú
còn dùng chiếc đuôi dài cứng của mình quật qua, quật lại vun vút vào mặt, vào
vai ông chủ. Vì quý An An nên ông chủ cũng làm ngơ, thấy chầot vẫn được việc
nên ông chủ luôn nâng niu, chăm sóc chú chu đáo, chẳng khi nào đánh chú ta roi
nào cả. Chỉ có cậu bé con ông chủ là cảm thấy nghi ngờ trước sức mạnh của An An
giảm tụt như vậy, từ đó cậu chủ hay quát mắng và thỉnh thảng lại tặng cho chú
một vài doi vào mông đau điếng, làm chú ta giật thót cả mình. Tuy vậy, chú ta
vẫn cứ phá phách, giận cá chém thớt vục vặc khắp nơi, vào chuồng phá chuồng,
kéo xe vặc xe, gặp đồng loại yếu hơn húc đồng loại, thậm chí còn vặc cả sừng
vào gốc cây làm bật cả vỏ trắng hếu. Sểnh một tí là An An lao vào ruộng lúa,
bãi khoai của nông dân chén bậy, làm mất mặt cả ông chủ. Cậu bé chuộc An An về
vụt cho một trận, xong đâu vẫn vào đấy, hễ không có người chăn dắt là chú ta
lẻn vào phá hoại hoa mầu, đến là khốn khổ với chú. Từ đó tự nhiên trong mắt
người dân của thôn Thạch Khoán chú bò mộng An An mất dần cảm tình với họ, không
ai đặt nhiều hy vọng là chú có thể thay thế được xe công nông đã bị cấm nữa.
Mọi người mong chú hãy dùng sức khoẻ cường tráng của mình phục vụ sản xuất,
giúp đỡ bà con nông dân và cũng là giúp chú có miếng ăn dễ dàng.
HOAN HÔ "TƯ VẤN SỨC KHOẺ"
Cơ quan tổ chức Hội nghị nói chuyện chuyên đề, mời chuyên gia cấp trên
về "Tư vấn sức khoẻ", vợ tôi thuộc thành phần được tham gia, sau khi
dự Hội nghị về thấy vợ phấn khởi hẳn lên, nét mặt có phần "nghiêm
trọng" hơn thường ngày. Mọi công việc lo lắng cho cuộc sống gia đình có
chiều hướng khác hẳn, nhất là vấn đề "chăm sóc sức khoẻ" cho chồng
con là biểu hiện rõ nét nhất. Vì vậy, những sinh hoạt gia đình tất bật hơn, gần
như bị đảo lộn hoàn toàn. Bản thân tôi đang là người tương đối tự do, bỗng
nhiên trở thành người bị cấm đoán và theo dõi nhiều nhất, cấm đoán đến khó chịu
quá mức nhưng vẫn phải chấp hành triệt để.
Buổi
cơm chiều hôm đó, ngồi vào bàn ăn tôi tìm mãi mà không thấy chai rượu nếp cẩm
thường ngày tôi vẫn làm vài chén trước bữa ăn không cánh mà bay, sai con tìm
thế nào cũng chẳng thấy, hỏi vợ vợ bảo không biết, tôi bực mình cáu bẳn với vợ
con, làm cho bữa cơm chiều mất ngon. Xong bữa nàng mới thủ thỉ bảo tôi: Em giấu
chai rượu của anh rồi, Bác sỹ "tư vấn sức khoẻ" căn dặn uống rượu rất
có hại cho sức khoẻ, làm sa sút kinh tế, vợ chồng anh em đánh cãi nhau, tan nát
cửa nhà, nên em cấm anh uống rượu. Ngày hôm sau, khẩu phần ăn của gia đình có
sự thay đổi đến kỳ lạ, trên mâm rau nhiều hơn thịt, cơm nấu ít hẳn đi, mà rau
chẳng xào nấu gì cả, chỉ có món luộc thôi, ngồi vào mâm ăn vài miếng khó nuốt,
tôi cố gắng lắm mới nuốt nổi bát cơm. Nàng nói: Bác sỹ "tư vấn sức
khoẻ" căn dặn chế độ ăn uống thời đại mới phải ăn nhiều rau, giảm thịt cá,
cơm ăn mỗi bữa không quá 2 lưng bát, thức ăn hạn chế đến mức thấp nhất xào với
mỡ, rau luộc là tốt nhất. Thế là từ đó tôi thường xuyên được thưởng thức món
rau luộc trong thực đơn mỗi ngày.
Buổi
chiều, đến giờ tập thể thao, tôi đang định sỏ đôi giầy Adidat vừa mới mua để đi
đánh bóng bàn, vợ vội chạy đến cất ngay "Từ nay anh đi tập thể thao chỉ
cần đi chân đất, không cần đi giầy thì người mới khoẻ được". Bác sỹ
"tư vấn sức khoẻ" căn dặn mỗi ngày con người chúng ta đôi chân phải
được tiếp đất trong khoảng thời gian nhất định để cho âm dương điều hoà. Các
anh đi làm việc nhà nước, giầy dép quần áo là lượt suốt ngày có tiếp đất bao
giờ đâu mà khoẻ mạnh được. Thế là từ hôm đó đôi giầy thể thao mới mua của tôi
đành nằm xếp xó.
Đi
ngủ, vợ tôi nằng nặc bắt quay đầu giường ngược lại với tư thế thường ngày chúng
tôi vẫn nằm, rất khó chịu nhưng là "mệnh lệnh" của nàng tôi đành miễn
cưỡng chấp hành, mặc dù vẫn vùng vằng chút ít, làm cho tối hôm ấy tôi cứ trằn
trọc khó ngủ vì bị thay đổi vị trí "lạ giường". Sáng ngày nàng mới
nhẹ nhàng giải thích: Bác sỹ "tư vấn sức khoẻ" căn dặn giường ngủ
tuyệt đối không được quay đầu phía Bắc, vì theo khoa học dưới tác dụng của lực
từ trường trái đất người nằm ngủ quay đầu phía Bắc không có lợi cho sức khoẻ,
hay bị ốm. Ối giời! thế mà tôi chẳng nhận ra, từ bé đến lớn tôi nằm ngủ có bao
giờ chọn hướng đâu, may mà không bệnh tật gì hết, tôi vẫn mạnh khoẻ, nặng gần
70 kg. Thật là hú vía !
Hoan
hô "Tư vấn sức khoẻ", nhờ đó mà cuộc sống thường ngày tẻ nhạt của tôi
được đổi mới hoàn toàn, trọng lượng cơ thể giảm đi rõ rệt, vòng eo nhỏ lại, bữa
ăn giấc ngủ đơn giản hơn, thoải mái và ngon hơn. Cái quan trọng là tôi thấy
mình được coi trọng, được vợ quan tâm nhiều hơn. Tôi buột miệng "Ôi vợ
muôn năm!".
NHỮNG BÔNG HOA
TẶNG THẦY
Người ta bảo giảng viên và cán bộ quản
lý giáo dục ở các trường học như những người lái đò, cứ mỗi khoá học là một
chuyến đò đưa khách sang sông và thường là khách nhớ người lái đò, chứ mấy khi
người lái đò nhớ khách. Điều đó quả là rất đúng.
Hôm
ấy, bất ngờ Nam Ngạn nhận được một tặng phẩm gồm 20 bông hoa Dơn từ một thành phố du lịch phía Nam mà người ta
thường gọi là "Thành phố Ngàn hoa" gửi ra, nhận món quà, Nam Ngạn rất
trân trọng và cảm động. Càng xúc động hơn khi biết người gửi quà cho mình lại
chính là người học trò, người bạn, người đồng chí cách đây hơn 20 năm cùng đơn
vị.
Ngày ấy, Nam Ngạn và Trương Nho Tuấn ở Đại đội 2,
Tiểu đoàn 1, Trường Sỹ quan Lục quân 1. Tuấn là học viên còn Nam Ngạn là trung
đội trưởng, tuy chức vụ có khác nhau, nhưng hai người có một cuộc sống khá tình
cảm và vất vả, Cuộc đời của người học viên đào tạo sỹ quan và cán bộ phân đội
lúc ấy có khác nhau là mấy. Thời bao cấp, cũng có lúc cơm chưa được no, áo chưa
đủ ấm, lăn lộn thao trường, bãi tập suốt ngày. Cánh trung đội trưởng của Nam
Ngạn cũng vất vả không kém gì học viên, ăn ngủ sát học viên, nên anh em gọi đùa
thân thiết là "học viên năm thứ tư". Nam Ngạn thấu hiểu hoàn cảnh
từng đồng chí trong trung đội. Tuy ai cũng vất vả, gian khổ nhưng rất tích cực
học tập và rèn luyện, Trương Nho Tuấn là một người trong số trên ba chục học
viên thuộc trung đội Nam Ngạn quản lý như thế. Tuấn học khá, rèn luyện tốt nên
giữa năm thứ hai anh đã trở thành đối tượng được kết nạp Đảng, nhưng khi xét
kết nạp, Tuấn chưa đủ điều kiện vì chưa có xác minh lý lịch đành phải hoãn lại,
nhưng Tuấn không nãn chí, anh tiếp tục học tập, rèn luyện tốt, mãi đến năm
cuối, trước khi ra trường, Tuấn mới trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong thời gian chờ xác minh lý lịch của Tuấn, hai người vẫn thường trao đổi,
tâm sự với nhau, Nam Ngạn vừa ở cương vị là đồng chí đồng đội, vừa là người
anh, cấp trên động viên Tuấn cố gắng học tập, để tốt nghiệp ra trường trở thành
người cán bộ chỉ huy giỏi. Thế rồi, ra trường Tuấn về nhận nhiệm vụ ở một quân
đoàn chủ lực đóng quân trên một vị trí chiến lược của Tổ quốc, Nam Ngạn ở lại
trường tiếp tục làm giảng viên rồi trợ lý cơ quan của Nhà trường. Xa nhau hàng
nghìn Km hai người chưa một lần gặp lại nhau, ai vì công việc người đó, nên cái
tên Trương Nho Tuấn cũng phai mờ trong Nam Ngạn theo năm tháng và "những
chuyến đò" nối tiếp nhau chắp cánh cho những ước mơ của bao lớp học viên
bay đi khắp mọi miền Tổ quốc cứ thế sang sông.
Bẵng
đi hơn 20 năm sau, Nam Ngạn nhận được những bông hoa Dơn tươi thắm của người
học trò, khi anh đang là giảng viên của một học viện Quân sự ở phía Nam đất nước. Món quà giá trị vật chất
tuy không lớn, nhưng giá trị tinh thần và tình cảm đồng chí, thầy trò thì thật
là lớn biết bao.
Nam Ngạn nghĩ, những người thầy có công chăm sóc,
vun sới những "mần xanh tương lai tuổi trẻ" thật là hạnh phúc, chính
họ là "những người lái đò" đã góp rất nhiều công sức để đưa những con
thuyền trí tuệ tới bến bờ hạnh phúc. Những người "đi đò" không đơn
giản chỉ là "đi đò"mà ở họ luôn nhớ mãi con đò đã từng đưa đón họ
vượt qua bao thác ghềnh để đến bến bờ của vinh quang, thành đạt.
LỰA LỜI
Khi mặt trái
của kinh tế thị trường luồn lách và đang tác động đến từng ngõ xóm, gõ cửa đến
từng nhà, với biết bao ồn ào, náo nhiệt. Thì cuộc sống không đơn giản chỉ đồng
tiền bát gạo mà còn rất nhiều bề bộn, lo toan. Cái được thì rất nhiều, nhưng
cái mất vẫn còn và không ít những điều trăn trở, băn khoăn.
Cuộc
đời, dẫu không cho nhau được gì, cũng cần dành cho nhau những lời nói tốt đẹp,
ngọt ngào, mang đậm chất nhân văn, để cho người đối thoại với mình dễ vừa lòng.
Ôi những câu dân ca Bắc Bộ, những khúc hát quan họ của người xưa sao mà lắng
sâu, mà chứa đựng nhiều ẩn ý đến vậy. Chẳng cần phải nặng lời, chẳng cần nài ép
mà lời muốn nói của mình vẫn được đối phương chấp nhận "Lại đây ăn một
miếng trầu, không ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng". Lời mời như vậy lẽ nào
người được mời lại không đón nhận miếng trầu ấy. Mà miếng trầu tự ngàn xưa
chính là mở đầu của mọi câu chuyên, "Miếng trầu nên duyên, miếng trầu mang
tiếng", khi nhận ăn trầu rồi sẽ sao đây, nhiều hứa hẹn đang chờ phía
trước.
Người
con gái đẹp thời nào cũng vậy đều được các chàng trai chú ý, muốn làm quen, tán
tỉnh. Rồi cũng có khi quá đà thành ra là trêu nghẹo, cản đường, giằng co, đến
nỗi mất cả việc, muộn cả buổi chợ. Vậy thì, những lời nhỏ nhẹ từ đôi môi xinh
xắn của nàng buột ra "Người ơi buông áo em ra, để em đi chợ kẻo mà chợ
trưa". Câu hát cứ nhùng nhằng, nhưng hiệu quả vô cùng, để cho em đi nhé,
nếu không sẽ bị muộn chợ thì còn mua bán được gì, lỡ việc của em ra, tội
nghiệp. Nghe câu hát ấy, người con trai nào mà chẳng chạnh lòng, dẫu không muốn
vẫn phải buông áo em ra, không cản đường nữa, nhường bước cô em, để em đi chợ.
Thế đấy, cần gì phải mắng, phải chửi, phải xô đẩy, phải lườm nguýt mới thoát
khỏi sự trêu ghẹo của cánh trai làng nghịch ngợm.
Dân
ca miền Trung dẫu có thật thà đến "Giận thì giận, mà thương càng
thương", nhưng cuộc sống vẫn cứ đậm đà tình nghĩa. Dù có lao động vất vả,
năm nắng mười mưa nhưng câu ca vẫn còn đọng mãi "Cầu cho trong ấm, ngoài
êm" quả là có ý nghĩa sâu sắc. Ở đâu cũng cần có cuộc sống bình yên để
phát triển và cũng chỉ có bình yên, có "trong ấm, ngoài êm" thì mới
phát triển bền vững được. Người miền Trung mượn câu dân ca "Đi cấy"
để nói lên nỗi lòng của mình. Bởi mảnh đất nhọc nhằn ấy huôn phải hứng chịu sự
khắc nghiệt của thiên nhiên với cái "nắng tháng sáu, bão tháng bảy",
chỉ mong sao cho êm ấm, yên vui trong xóm, ngoài làng là tốt lắm rồi.
"Lời
nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Cách nói, cách
gọi của ông cha thật là giản dị và có ý nghĩa trong cuộc sống. Người miền Nam
thường gọi "cái bát" thành "cái chén"; "cái chén"
thành "cái ly", phải chăng ý tứ của người xưa muốn sự việc "nhỏ
hoá vấn đề" chăng. Bởi cuộc sống thường nhật bao bộn bề, lo toan, kéo theo
những căng thẳng, phiền toái; nhiều sự việc nếu cứ để nguyên sự thật trần trụi
thì chẳng có lợi gì cho cuộc sống, mà có khi lại làm mất lòng nhau. Thì cứ lựa
lời mà "nhỏ hoá vấn đề" đi có tốt hơn không, cái to trở thành cái bé,
cái bé trở thành cái bé hơn chắc chắn sẽ chót lọt tất cả. Nếu mời bàn bè ăn
thêm một "bát cơm", uống thêm một "chén rượu" hoặc một
"cốc rượu" như vậy có thế là nhiều, bạn của mình khó chấp nhận, thì
ta mời bạn ăn thêm một "bát cơm", uống thêm một "ly rượu"
thì chắc bạn mình dễ chấp nhận hơn, vì chỉ một chén, một ly có lẽ không nhiều.
Cuộc
sống đẹp đẽ và phong phú, "chỉ có yêu người thì người mới yêu ta".
Không thủ tiêu đấu tranh, nhưng cũng đừng"quan trọng hoá" vấn đề mà
làm cho cuộc sống thêm phức tạp. Trong công tác vì việc chung cần phải
"phê và tự phê"sâu sắc, nhưng trong sinh hoạt có lẽ nên lựa lời mà
"nhỏ hoá vấn đề" đi, cái gì bỏ
qua được thì bỏ qua, thì cuộc sống sẽ rất mến thương.
Dân
ca miền Trung dẫu có thật thà đến "Giận thì giận, mà thương càng
thương", nhưng cuộc sống vẫn cứ đậm đà tình nghĩa. Dù có lao động vất vả,
năm nắng mười mưa nhưng câu ca vẫn còn đọng mãi "Cầu cho trong ấm, ngoài
êm" quả là có ý nghĩa sâu sắc. Ở đâu cũng cần có cuộc sống bình yên để
phát triển và cũng chỉ có bình yên, có "trong ấm, ngoài êm" thì mới
phát triển bền vững được. Người miền Trung mượn câu dân ca "Đi cấy"
để nói lên nỗi lòng của mình. Bởi mảnh đất nhọc nhằn ấy huôn phải hứng chịu sự
khắc nghiệt của thiên nhiên với cái "nắng tháng sáu, bão tháng bảy",
chỉ mong sao cho êm ấm, yên vui trong xóm, ngoài làng là tốt lắm rồi.
"Lời
nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Cách nói, cách
gọi của ông cha thật là giản dị và có ý nghĩa trong cuộc sống. Người miền Nam
thường gọi "cái bát" thành "cái chén"; "cái chén"
thành "cái ly", phải chăng ý tứ của người xưa muốn sự việc "nhỏ
hoá vấn đề" chăng. Bởi cuộc sống thường nhật bao bộn bề, lo toan, kéo theo
những căng thẳng, phiền toái; nhiều sự việc nếu cứ để nguyên sự thật trần trụi
thì chẳng có lợi gì cho cuộc sống, mà có khi lại làm mất lòng nhau. Thì cứ lựa
lời mà "nhỏ hoá vấn đề" đi có tốt hơn không, cái to trở thành cái bé,
cái bé trở thành cái bé hơn chắc chắn sẽ chót lọt tất cả. Nếu mời bàn bè ăn
thêm một "bát cơm", uống thêm một "chén rượu" hoặc một
"cốc rượu" như vậy có thế là nhiều, bạn của mình khó chấp nhận, thì
ta mời bạn ăn thêm một "bát cơm", uống thêm một "ly rượu"
thì chắc bạn mình dễ chấp nhận hơn, vì chỉ một chén, một ly có lẽ không nhiều.
Cuộc
sống đẹp đẽ và phong phú, "chỉ có yêu người thì người mới yêu ta".
Không thủ tiêu đấu tranh, nhưng cũng đừng"quan trọng hoá" vấn đề mà
làm cho cuộc sống thêm phức tạp. Trong công tác vì việc chung cần phải
"phê và tự phê"sâu sắc, nhưng trong sinh hoạt có lẽ nên lựa lời mà
"nhỏ hoá vấn đề" đi, cái gì bỏ
qua được thì bỏ qua, thì cuộc sống sẽ rất mến thương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét