Sách:
Tình yêu sau phiên gác
CHIẾC ỐNG
NHÒM CHO MƯỢN
Vòng hành quân dã ngoại học về địa hình quân sự và công tác
tham mưu của đơn vị, Nguyễn Văn Thường đã bước sang ngày thứ sáu. Xuất phát từ
Công trường 50, tiểu đội của Thường đi qua xóm Bãi, xóm Chóng, qua Cao điểm 53
và dừng chân ở bản Gò Sống. Đây là một bản người Mường thuộc huyện Ba Vì (Hà
Tây) nằm dưới chân núi Tản Viên. Tiểu đội của Thường nghỉ nhờ trong nhà một cô
giáo trưởng làng còn rất trẻ. gia đình cô giáo chỉ có ba người, Mẹ, cô giáo và một
cậu em trai khoảng mười bốn tuổi.
Căn nhà sàn lợp ngói khá rộng đủ chỗ
cho cả tiểu đội của Thường nghỉ ngơi và sinh hoạt, có nơi để ba lô, xoong chậu,
mỗi người một khẩu súng, một la bàn và một ống nhòm phục vụ cho học tập, chủ
yếu là tập cắt góc phương vị trên địa bàn vùng rừng núi. Việc bảo đảm an toàn
cho vũ khí trang bị được cấp trên nhắc nhở, quán triệt đầy đủ, trong tiểu đội
ai cũng ý thức được điều này, đặc biệt là đi học dã ngoại đường dài và đóng
quân trong nhà dân.
Ngay từ chiều đến nhà cô giáo Hoà,
toàn tiểu đội đã tổ chức làm công tác dân vận giúp gia đình như : quét dọn xung
quanh nhà, bổ củi, sắp xếp lại nơi ngủ nghỉ của tiểu đội… Ai cũng thấy vui vẻ
và như trút được những mệt nhọc sau chặng đường hành quân dài ngày. Buổi tối
hôm đó, sau khi trò chuyện làm quen, cô giáo Hoà nói chuyện với tiểu đội
Thường, ban đầu cô giáo còn dè dặt, sau đó quen dần, thỉnh thoảng coco lại chen
vào một vài câu hài hước, khoảng cách giữa chủ và khách cứ ngắn dần. Biết được
nơi đây gần Ao Vua, một địa điểm du lịch nổi tiếng nên Thường hỏi cô giáo.
-
Cô giáo ơi! Nghe nói khu vực này gần Ao Vua, ở đó đẹp lắm phải không?
- Đúng đấy anh ạ! Bây giờ ở đấy đẹp và
vui lắm, mùa du lịch người Hà Nội lên
rất đông.
- Thế à! Không hiểu chúng tôi có thời
gian mà đi thăm Ao Vua được không? - Thường lại hỏi:
Nếu được nghỉ, các anh đi thăm Ao Vua
tắt qua hai quả đồi trước mặt cho gần. Vừa nói cô giáo vừa chỉ tay ra phía
trước nhà trong khoảng trời tối mịt.
Thế sao lại gọi là Ao Vua hả cô giáo?
- Thường lại tiếp tục hỏi.
- Chuyện dài lắm mà là truyền thuyết
lịch sử đấy các anh ạ! Em sẽ kể các anh nghe.
Cô giáo bắt đầu kể cho tiểu đội của
Thường nghe truyền thuyết Ao Vua, giọng cô giống như đang giảng bài cho học
sinh vậy.
"Ngày xửa, ngày xưa vào thời Hùng
Vương đất nước ta bị quân giặc xâm lược, Vua Hùng mang quân đi chiến đấu chống
giặc nhưng thế giặc mạnh quá, nhà Vua không chống nổi, quan quân tan tác mỗi
người một phương. đường cùng, nhà Vua phải bỏ kinh thành rút chạy cùng với một
số ít tướng sĩ. Khi rút chạy từ Phong Châu (Phú Thọ) về đến bờ sông Đà, nhà Vua
gặp một nhà Chiêm Tinh- Vua hỏi nhà Chiêm Tinh nọ :
- Thần có thể cho ta biết liệu ta có
lấy lại được đất nước này không? Hiện nay thành ta đã mất, quân ta đã tan, sức ta đã tàn,
lương ta đã kiệt.
- Thưa nhà
Vua, bên kia sông Đà là núi Tản Viên, nhà Vua nên vượt qua sông mà sang núi đó.
Từ đây đến núi Tản Viên cũng không xa, đi ngay bây giờ đến giờ Ngọ là có thể
tới được. Giữa trưa nhà Vua đi qua đó nếu nghe tiếng gà sống gáy thì cơ đồ của
nhà Vua chưa bị mất. Nếu không nghe tiếng gà sống gáy thì coi như sự nghiệp của
nhà Vua đã hết.
Nghe lời
nhà Chiêm Tinh nói như vậy, nhà Vua cùng quân lính còn lại vượt sông Đà đến gần
chân núi Tản Viên đi qua một gò đất thấp, quả nhiên nhà Vua nghe tiếng gà sống
gáy giữa ban trưa. Tin lời nhà Chiêm Tinh, vua và quân lính vững tin lui vào
núi Tản Viên lập căn cứ kháng chiến. Các tướng sĩ bị lưu lạc nghe tin Vua lánh
nạn ở đây lần lượt tìm về. Quân tướng ngày một đông thêm, tại căn cứ dưới chân
núi Tản, vua chú trọng luyện tập quân sĩ ngày đêm chuẩn bị cho cuộc chiến đấu
giành lại đất nước. Ở vùng núi Ba Vì này, có một thác nước từ lưng chừng núi đổ
xuống tạo thành một vực sâu, nước xanh ngăn ngắt, không khí mát dịu, nhà vua
đặt đại bản doanh gần đó. Thường ngày vua vẫn dùng nước ở đây để ăn uống, sinh
hoạt, tắm giặt…Sau này cuộc kháng chiến thành công, nhà Vua lấy lại được đất
nước và ngự giá trở về Kinh đô. Từ đó về sau nhân dân vùng này vẫn thường gọi
nơi Vua tắm là Ao Vua, còn gò đất mà nơi Vua đi qua đã nghe tiếng gà sống gáy
sau này dân cư đến ở thì gọi là bản Gò Sống, Bản Gò Sống cũng là nơi có truyền
thuyết lịch sử gắn với chiến công dựng nước và giữ nước. Cả Ao Vua nữa, nếu đến
thăm mà không biết truyền thuyết về nó thì chưa thể cảm nhận được hết vẻ đẹp
đặc sắc của nó phải không các anh?. Bởi vậy, Ao Vua bây giờ là nơi du lịch đầy
thơ mộng, đông khách đến thăm. Người ta cho rằng được đến thăm Ao Vua đã là may
mắn lắm rồi, nhưng đến Ao Vua và được tắm, được uống nước Ao Vua, được hưởng
không khí mát mẻ nơi thần tiên ấy thì con người cảm thấy thanh thoát hơn, sẽ
gặp nhiều may mắn hơn trong cuộc sống. Học tập ở trên này các anh nên tranh thủ
đến thăm Ao Vua một lần".
Cô giáo
say sưa kể về Ao Vua với tiểu đội của Thường như một người hướng dẫn viên du
lịch, làm cho mọi người rất thích thú, bởi ai cũng đã biết thêm nhiều điều mới
lạ về Ao Vua. Riêng Thường thầm nghĩ "Bất cứ giá nào cũng phải đến thăm Ao
Vua một lần". Nhưng rồi việc học tập luôn là nhiệm vụ không thể bỏ được,
bởi một lần đi học dã ngoại như thế này là một lần đi vòng tổng hợp khép kín
nên việc đến Ao Vua là khó thực hiện được.
Thế rồi,
vào buổi trưa hôm sau, khi một người đang cắm cúi làm bài tập chuẩn bị cho buổi
chiều tập bài thực hành., Thường đã trốn ra khỏi nơi ôn bài và không quên mang
theo chiếc ống nhòm, Thường tìm cậu em trai của cô giáo rut theo dẫn đường đến
Ao Vua. Sơn (tên cậu bé) lại rủ thêm một người bạn cùng đi với Thường, cả ba
người đi tắt qua những quả đồi đến một sườn núi nhìn xuống Ao Vua cách không xa
khoảng 100 đến 300m, Thường thấy một vùng thiên nhiên thật là thơ mộng. Thác
nước đổ xuống trắng xoá, phía dưới là Ao Vua nước xanh ngăn ngắt, xung quanh là
vườn trầu nở đầy hoa trắng ngần, Thường bảo hai cậu bé dừng lại ở một lưng
chừng đồi dưới gốc một cây trầu cũng rụng đầy hoa trắng. Hôm ấy ngày chủ nhật,
khách đến tham Ao Vua rất đông, màu hoa hoà vào sắc áo làm Ao Vua như một bức
thảm đẹp vô ngần. Quan sát bằng mắt thường đã thích, khi nhìn bằng ống nhòm lại
càng thú vị hơn. Đang buổi ban trưa, từng lớp, từng tốt trai gái ngồi trên các
tảng đá gần sát Ao Vua hoặc dưới những gốc cây rụng đầy hoa trắng. Họ ngắm
cảnh, ăn uống, nói cười vui vẻ, trông nhộn nhịp, đông vui quá. Các cậu bé cứ
đòi Thường trao ống nhòm cho xem thử và chúng tranh nhau nhìn ngắm Ao Vua, nét
mặt chúng đầy những hoan hỉ như vừa mới khám phá ra những điều huyến bí của một
thế giới thần tiên.
Rất muón
được đến tận nơi có dòng nước trong mát của Ao Vua, nhưng sắp đến giờ học buổi
chiều, Thường phải quay về để học tập, Thường lấy ống nhòm mang về nhưng bọn
trẻ cứ nài nỉ mãi:
- Anh Thường! Anh cho chúng em mượn ống nhòm một
lúc, tý nữa am cầm về trả anh ngay- Cậu Sơn thiết tha nói: Không được đâu các
em!- Thường trả lời dứt khoát, anh phải mang về để học, hơn nữa sợ các em làm
mất thì anh bị kỷ luật.
- Anh đừng lo! tý
nữa là em cầm về ngay thôi mà, anh ở trong nhà em chứ đi đâu mà sợ. Chúng em
đang xem thích quá anh ạ. Ống nhòm của anh xem rõ quá.
Ngẫm nghĩ một lát rồi Thường đồng ý và
nói:
- Thôi cũng được! nhưng tý nữa cầm ống
nhòm về thì Sơn phải bí mật đưa cho anh nhé, đừng để cho ai biết mà rầy rà nghe
chưa.
Nói xong, Thường chạy vội vã, về đến
nơi cúng là lúc đơn vị chuyển địa điểm học tập, không trú quân ở bản Gò Sống
nữa. Thường vội vàng vào nhà khoác ba lô, súng và trang bị chào gia đình và cô
giáo, rồi nhanh chóng chạy vào hàng quân mà lòng đầy lo lắng. ống nhòm của
Thường cậu Sơn mượn vẫn chưa mang về, chiếc vỏ ống nhòm thường khoác bên hông
nhẹ tênh mà lòng Thường nặng trĩu. Tiếng trung đội trưởng nhắc vang vang bên
tai:
- Trước khi hành quân đến địa điểm học
tập mới, mỗi cá nhân kiểm tra lại vũ khí, trang bị. đơn vị ta rời khỏi đây là
không quay lại nữa, học xong khoa mục "cắt góc phương vị" sẽ trở về
doanh trại luôn.
Lòng Thường như lửa đốt, biết làm sao
được! báo cáo thì sợ bị khuyết điểm, mà không nói ra thì làm sao lấy được ống
nhòm? Thường cứ im lặng, hòng nghĩ kế gì để lấy được ống nhòm thì tiểu đội
trưởng đã kiểm tra đến trang bị của Thường. Anh phát hiện ra Thường chỉ còn đeo
chiếc vỏ ống nhòm không. Khi hỏi ống nhòm đâu, Thường cứ quanh co nói dối là bị
rơi trên đường hành quân hôm đến bản này. Khi tiểu đội trưởng bảo đi tìm thì
Thường đành thú nhận là đã cho bọn trẻ con mượn đi chơi Ao Vua chưa về.
Trung đội trưởng đành hoãn cuộc hành
quân muộn hơn thời gian qui định để Thường quay lại cây trầu, nơi bọn trẻ giữ
ống nhòm của Thường. Nhưng đến nơi bọn trẻ không còn ở đấy nữa. Tìm mãi xuống
khu vực gần Ao Vua nơi đông người du lịch vẫn không thấy các em đâu.
Khi ánh hoàng hôn buông xuống Ao Vua,
Thường mới thấy chúng từ trên một cây to lá rậm đang tụt xuống, vì mải quan sát
khách du lịch ra về nên chúng chẳng nhìn thấy Thường đi tìm. Thường lấy được
ống nhòm, cùng hai đứa trẻ chạy vội về vị trí tập trung thì đơn vị đã hành quân
từ lâu. Thường đang loanh quanh không biết xử trí ra sao thì Hoà- cô giáo
trường làng, cô chủ gia đình đã đứng trước mặt Thường- Cô đưa cho Thường tờ
giấy có những dòng chữ của trung đội trưởng gửi lại cho Thường, cô nói:
- Đơn vị anh hành quân từ lâu, chờ mãi
không thấy anh về, các anh ấy quay lại nhà em, kể cho em nghe một chuyện và nhờ
em đưa lá thư này cho anh.
Thường
đọc lá thư của trung đội trưởng, anh dặn rằng "nếu Thường lấy được ống
nhòm thì từ vị trí tập trung ban đầu (thôn Gò Sống) có thể đia theo đường mòn,
xác định trên bản đồ và thực địa để hành quân theo đơn vị. Cũng có thể cắt góc
phương vị theo bài tập để hành quân. đúng giờ N trung đội sẽ đợi Thường tại toạ
độ X. Chú ý đi theo đường mòn phải vận động khẩn trương vì quá giờ N trung đội
tiếp tục hành quân đến địa điểm khác. Nếu Thường đi theo góc phương vị phải xác
định thật chính xác vì phải vượt qua đồi núi, nếu không cẩn thận sẽ bị
lạc…"
Thường
đọc xong lá thư mà lòng vô cùng lo lắng, xen lẫn sự ân hận vì những hậu quả mà
mình gây ra. Do đi tìm ống nhòm trở lại quá muộn, nếu hành quân theo góc phương
vị đến toạ độ X đường sẽ ngắn hơn nhưng có thể bị lạc.
Cô
giáo Hoà thấy Thường bối rối ra mặt cũng sốt ruột hỏi Thường:
-
Bây giờ anh định về nhà em nghỉ, hay quyết định đi tìm đơn vị?
Anh
phải đi ngay, nếu không theo kịp đơn vị thì gay go em ạ- Thường trả lời trong
sự lúng túng. Sau đó Thường mở bản đồ tìm toạ độ X và thấy toạ độ X ở gần bản
S, Thường vội hỏi Hoà:
-
Em có biết đường tắt đi từ đây đến bản S không?
-
Có chứ! đường từ đây sang bản S nếu theo đường mồn khoảng 8km, nếu đi tắt vượt
đồi, rừng cchỉ khoảng 4km thôi anh ạ! Có việc em đi sang đó toàn đi theo đường
tắt này thôi.
-
Thôi nhé! Chào Hoà và Sơn, anh phải đi gấp cho kịp đơn vị.
Nói
xong, Thường khoác ba lô, trang bị bước vội theo hướng đã xác định về bản S,
nhưng Hoà và Sơn chạy theo nói:
-
Để chúng em dẫn anh đi theo lói tắt, nếu không núi cao rừng rậm, trời tối anh
sẽ bị lạc đấy. Khổ quá chỉ tại cậu Sơn nên anh phải vất vả đấy thôi.
Tuy
cũng hơi ngại nhưng không còn cách nào khác nên Thường đành chấp nhận để Hoà và
Sơn dẫn đường đi.
Như
biết lỗi, Sơn lầm lũi đi trước mở đường, thì còn Thường và Hoà đi sau. đường
rừng sứ dần dần khó đi, nhiều đoạn ba lô, trang bị của Thường bị cây rừng cản
lại, có đoạn Hoà phải đưa tay kéo Thường lên mới vượt được những vách thụt của
núi cản đường. Tay Thường nắm tay Hoà nóng hổi, Thường đã được cầm tay con gái
lần nào đâu. Tự nhiên có một tình cảm lạ lùng xao động con tim làm Thường cứ
muốn được nắm được nắm tay Hoà mãi trên con đường rừng gập ghềnh khúc khuỷu.
Trong ánh hoàng hôn sắp tắt, thường ngước nhìn Hoà thấy hai bò má em ủng đỏ. Cú
mỗi lần tay Thường chạm tay Hoà thì ánh mắt hai người vội bắt gặp nhau rồi lại
vội quay đi. Chưa nói điều gì nhưng Thường hiểu lòng Hoà cũng có điều gì xao
xuyến.
Đến
bản S gần toạ độ X, Thường chia tay Hoà và Sơn, sau cái bắt tay nồng ấm là ánh
mắt Hoà nhìn nửa như chờ đợi, nửa như thông cảm. NHìn thẳng vào mát Hoà, Thường
vội nói:
- Tạm biệt các em!
Rồi có ngày anh sẽ trở lại bản Gò Sống. Cảm ơn các em đã đưa anh tới đây.
Nói xong, Thường chạy vội về toạ độ X, khi Thường đến nơi đơn vị cũng sắp
sửa lên đường tiếp tục hành quân chuẩn bị cho một bài tập mới. Mặc dù Thường cố
quên đi tất cả để tập trung cho nội dung học tập nhưng kỷ niệm vui buồn về bản
Gò Sống, về Hoà và Sơn cứ lẫn lộn không phai. Hình ảnh cô giáo trường làng cứ in đậm
mãi trong Thường. Thường rất nhớ về tình cảm gia đình ấm cúng và một Ao Vua
trong truyền thuyết mà Hoà đã kể cho Thường và tiểu đội nghe.
Đợt hành quân dã ngoại năm ấy, kết quả học tập của Thường
không mấy mĩ mãn, cộng với cái án phê bình trước trung đội, khiến Thường thấy
thấm thía mãi. chính vì vậy, mà năm học cuối Thường đã phải cố gắng trên tất cả
các mặt để có kết quả khá khi ra trường, nhất là việc chấp hành kỷ luật và
Thường tạm quên bản Gò Sống. Nhiều lần Thường muốn lên thăm, song phần vì thiếu
thời gian, phần vì thiếu phương tiện nên ý định không thành. Thế rồi công việc
ôn thi cuối khoá cứ chuốn hút Thường. Tình cảm với cô giáo đành phải gác lại
một bên. Thường tự nhủ với lòng mình khi nào có thời cơ thuận lợi thì sẽ trở
lại Gò Sống thăm cô giáo.
Sau khi ra trường và đã phát triển thành đại đội phó
thuộc một Binh đoàn chủ lực đóng ở bên kia bờ sông Đà thì chính Sơn, cậu bé của
bản Gò Sống năm xưa, nay đã là chiến sĩ mới của đại đội Thường. Gặp lại Sơn tự
nhiên những kỷ niệm về bản Gò Sống, về Ao Vua và về Hoà - cô giáo trường làng
lại trỗi dậy trong Thường.
Gặp
lại nhau tâm sự, Sơn thật thà kể:
-
Chị em vẫn dạy học ở bản, chị ấy nhắc đến anh Thường luôn, chị cứ trách anh sao
chẳng thấy đến chơi.
Thường
nghe Sơn kể mà lòng chộn rộn, nhứng ký ức ngày xưa lại bùng cháy, Thường hẹn
với Sơn:
- Kết thúc khoa huấn luyện tân binh này, anh và Sơn sẽ về
thăm lại bản Gò Sống.
-
Vâng, mời anh về quê em chơi và đi thăm Ao Vua ạ! Ở đó bây giờ khác trước, đẹp
và vui hơn nhiều anh ạ.
Một
Sáng tháng năm, Thường cùng Sơn về Ba Vì, về thăm lại bản Gò Sống, thăm cô giáo
trường làng. Gặp lại Hoà, Thường không dám vồ vập nhưng từ trong đáy lòng dường
như có từng con sóng đang dồn nén đến cồn cào.
-
Tưởng anh quên hẳn Ao Vua rồi, chắc tên làng này anh không còn nhớ nữa phải
không?- Hoà nói với giọng dỗi hờn.
Không, không!- Thường vội trả lời- Ao Vua thì có thể
quên, nhưng bản Gò Sống và người bản Gò Sống thì anh không thể quên được. Anh
chỉ sợ nhất là em không nhận ra anh mà thôi. Em vẫn nhận ra anh, điều đó đã làm
anh hạnh phúc rồi.
Bất
giác Thường thấy má Hoà ửng đỏ như hôm nào, Thường nắm bàn tay em, chưa khi nào
Thường thấy Hoà đẹp như thế.
Một
ngày nán lại bản Gò Sống, Thường rủ Hoà đi thăm Ao Vua, nhưng thấy Hoà có vẻ
còn đắn đo, Thường nói:
-
Lần trước anh đi thăm Ao Vua bị mắc khuyết điểm bỏ đơn vị, bỏ việc học tập làm
ảnh hưởng đến tập thể. Lần này được tự do đi thăm Ao Vua, lẽ nào lại buồn hơn
trước. Anh muốn em cùng đi, em đã kể truyền thuyết về Ao Vua cho anh nghe nhưng
để được chứng kiến cảnh đẹp Ao Vua thì anh muốn em là người hướng dẫn du lịch
cho riêng anh.
Thế
là Hoà vui vẻ nhận lời, hôm đó cũng vào ngày chủ nhật trong sự ồn ào náo nhiệt
của nơi du lịch nổi tiếng, có một đôi trai gái sánh vai nhau đi đến Ao Vua. Một
người là bộ đội còn người kia là cô giáo trường làng - đó chính là Thường và
Hoà. Một ngày du lịch quả là quá ngắn ngủi khi có bạn gái ở bên. Vùng núi bóng
tối ập đến nhanh nhưng hai người vẫn ngồi trên tảng đá tâm sự. Tình cảm tuy
chưa thật đậm đà nhưng hiểu nhau cũng khá nhiều. Thường mạnh dạn ngỏ lời yêu
Hoà, khiến Hoà vô cùng bối rối. Bất giác đoi bàn tay nhỏ nhắn của em nằm gọn
trong đôi tay thô ráp của Thường và rồi tình yêu của đôi trai gái cũng đến,
muộn màn đôi chút nhưng ẩn giấu bao kỷ niệm vui buồn.
Nguyễn
Văn Lai
TRÊN ĐƯỜNG TRẢ PHÉP
Truyện
ngắn
Vì
có thành tích trong Hội thao, nên tôi được cấp trên giải quyết cho về tranh thủ
thăm quê. Chiều hôm ấy hết phép, tôi khoác ba lô ra ga lên tàu về đơn vị. Lần
đầu tiên về thăm nhà. Trong gia đình ai cũng quý, lúc ra đi bố mẹ, anh chị gói
ghém cho đủ thứ. Nào là mấy cân lạc, mấy bò gạo nếp, dăm quả dừa... và thế là
chiếc ba lô 3 cóc của tôi đã căng tròn và nặng trĩu. Quần áo, tiền nong và ít
quà của những gia đình đồng đội cùng quê và những lá thư tôi bỏ cả vào trong
chiếc cặp da sách ở tay, trông cũng da dáng lắm. Chắc đồng đội tôi ở đơn vị
đang chờ tôi lên để nhận quà và thư từ. Ra ga, chưa đến giờ tàu chạy, tôi còn
đang thơ thẩn trong phòng đợi ngắm nhìn bảng giờ tầu thì bắt gặp ánh mắt của
một cô gái trẻ ngồi ở hàng ghế gần đấy nhìn mình như có cảm tình. Bất giác tôi
nhìn thẳng vào cô ta, một cô gái lạ, không quen biết, nhưng ánh mắt của cô thì
như muốn làm quen. Một lúc sau cô ta tiến lại gần tôi và nói:
-
Anh đi tầu vào, hay tầu ra thế? Giọng cô có vẻ thân tình.
-
Tôi đi tầu ra.
-
Anh xuống ga nào?
-
Hà Nội ! Tôi trả lời
Ôi
thế thì may quá ! Em cũng đi Hà Nội, đến giờ bán vé rồi, nhờ anh mua hộ cho em
một vé với, để ba lô đây em trông cho. Nói rồi cô gái đưa tiền cho tôi mua vé
hộ. Số tiền cô đưa cho tôi nhiều hơn số tiền cần thiết để mua một vé đi Hà Nội.
Vì không quen biết nên tôi nhận tiền mua vé hộ cô ta, nhưng không gửi ba lô nhờ
cô trông hộ. Mua xong tôi trả lại tiền thừa và vé tầu cho cô gái, nhưng cô gái
không cầm mà còn nhờ tôi cầm hộ cả tiền và vé.
Khi
tầu vào ga, chúng tôi lên cùng một toa, nhưng hai vé khác số ghế, cô gái có chỗ
ngồi bên dãy số chẵn, còn chố tôi ngồi bên dãy số lẻ, cạnh tôi là một bác trung
niên. Khi tàu chạy được một lúc, cô gái ban nãy sách chiếc túi du lịch có vẻ sang trọng tiến lại chỗ tôi ngồi và
đề nghị với người ngồi cạnh tôi.
-
Bác ạ ! Hai anh em chúng cháu (cô gái chỉ vào tôi) cùng đi Hà Nội nhưng mua vé
không cùng chỗ ngồi. Bác làm ơn đổi chỗ cho chúng cháu. Mời Bác sang ghế của
cháu, nhường chỗ cho hai anh em cháu ngồi ghế này có được không ạ. Cô gái nói
với một giọng lễ phép, đồng thời đưa đôi mắt sắc của cô liếc nhìn tôi một cách
tình tứ và đầy vẻ thân tình. Tự nhiên tôi thấy như mình gặp vận may được một cô
gái vừa đẹp, vừa xinh quan tâm đến tôi nhiều như vậy.
-
Xin Bác làm ơn đổi chỗ cho chúng cháu ! Tôi cũng vội lên tiếng đồng tình. Bác
trung niên đồng ý, cô gái được đổi chỗ và ngồi gần tôi. Tôi cố ngồi thu lại để
nhường chỗ rộng cho cô gái ngồi, chiếc cặp da tôi vẫn ôm trong lòng, bấy giờ
tôi vội để lên gác cùng với chiếc ba lô đã được buộc chặt dây.
Cô gái ngồi xuống cạnh tôi, mùi nước
hoa thơm ngây ngất, cả tấm thân mới lạ của cô cũng ép sát bên tôi, làm cho tôi
bối rối lạ thường. Từ nhỏ lớn lên đến bây giờ, tôi đã được gần cô gái nào đâu.
Vì thế, tôi thấy trong người như có gì rạo rực, khó tả. Cô gái hỏi tôi đủ thứ
chuyện, nào là chuyện đơn vị tôi đóng quân có nhiều phụ nữ không và tôi đã có
người yêu chưa? Vừa nói, cô vừa ngồi sát vào tôi hơn, mùi da thịt con gái làm
tôi như người mất hồn, lời nói và động tác của cô đối với tôi như một đôi vợ
chồng mưới cưới. Lúc đầu tôi còn bối rối, sau đó quen dần tôi cũng huyên thuyên
đủ chuyện không kém gì cô gái. Trời cứ tối dần, con tầu lao vào màn đêm mang
theo niềm hưng phấn và choáng ngợp của tôi. Cứ thế tôi say chuyện, say tình mà
trời đã khuya lúc nào chẳng rõ. Cô gái ngồi sát vào tôi hơn nữa, một tay cô
choàng qua cổ tôi, tay kia đưa cho tôi điếu thuốc lá của cô và nói : “Anh hút
thuốc đi và nếu mệt cứ dựa vào em mà ngủ, để em trông hành lý cho”. Tôi cầm
điếu thuốc châm lửa hút, sau đó tôi cảm thấy buồn ngủ quá và cứ chìm dần vào
giấc ngủ theo nhịp xập xình của con tầu trong đêm vắng.
Gần sáng, khi tầu đến ga Hà Nội, tôi
cũng vừa tỉnh dậy, thì ôi thôi, cô gái ngồi bên tôi không còn bên tôi nữa,
chiếc cặp da của tôi cũng không cánh mà bay, chỉ còn lại chiếc ba lô nặng chịch
với mấy quà dừa lũng lẵng. Tôi hốt hoảng đi tìm cô gái khi mà hành khách xuống
tầu gần hết mà chẳng thấy cô đâu. Lúc này tôi mới biết tôi bị chính cô gái đẹp
ấy lừa. Sờ vào tiền tôi để ở túi ngực cũng chẳng còn đồng nào, số tiền mà người
thân cho tôi và tiền của gia đình bạn bè gửi cũng đều mất cả. Chỉ còn một ít
tiền nhỏ mua vé thừa tôi để ở túi quần là chưa mất, may ra đủ tiền mua vé ô tô
lên đơn vị. Tự nhiên tôi
thấy ghét và sợ các cô gái đến thế.
Trời
chưa sáng rõ, ra khỏi ga tầu, tôi lững thững khoác ba lô đi trên đường phố mà
lòng nặng trĩu. Phố xá còn vắng người qua lại, phía trước lại có một cô gái,
bên vai cũng khoác một chiếc túi du lịch nhỏ đang chậm bước, thỉnh thoáng cô
gái lại quay về phía sau và như muốn chờ đợi một ai. Tôi cố đi chậm hơn, để
khỏi phải chạm gặp cô gái, nhưng cô gái cũng dường như cố đợi tôi lên. Buộc
lòng tôi vẫn phải đi tiếp, thoáng nhìn, tôi thấy cô gái cũng đẹp và có vẻ thùy
mỵ dễ tin hơn. Song tôi vẫn cảm thấy đáng ghét các cô gái quá chừng. Tôi chẳng
muốn tiếp xúc với cô, mặc dù cùng trên một tuyến đường vắng người qua lại. Khi
tôi đến gần và muốn vượt, bất chợt cô gái quay về phía tôi và hỏi:
-
Anh bộ đội ơi ! Anh có về bến xe Kim Mã cho em đi cùng với.
-
Tôi cũng đi bến xe Kim Mã đây. Sao cô không chờ xe bus hoặc bắt xe ôm mà đi,
tại sao lại phải đi bộ. Thôi nhé cô cứ đứng đây mà chờ xe, tôi phải đi trước
đây, đi bộ cô không theo kịp tôi đâu. Tôi nói với cô gái bằng một giọng thiếu
cảm tình như vậy và tiếp tục rảo bước.
-
Đợi em cùng đi bộ với, tí nữa trời sáng rõ có xe bus thì chúng ta cùng đi xe
anh nhé !
-
Cô đi một mình không được à? Đường phố chứ có phải rừng núi đâu mà sợ. Tôi xẵng
giọng.
-
Nhưng mà gặp anh là bộ đội, em muốn đi cùng anh cho vui. Vừa nói cô vừa bước
nhanh cho kịp tôi.
Miễn
cưỡng tôi cùng đi với cô gái. Tôi kín đáo liếc nhìn cô và phán đoán xem cô gái
thuộc loại người nào. Gương mặt cô rất trẻ, và có vẻ rụt rè nhưng đầy tin
tưởng, chắc là khi thấy có tôi đi bên cạnh.
-
Đến bến xe Kim Mã anh đi về đâu ? Cô gái hỏi.
-
Sơn Tây, tôi trả lời cộc lốc.
-
A ! thế thì tốt quá, em cũng lên Sơn Tây.
Cô
gái tiếp tục hỏi chuyện với một giọng ngây thơ và như muốn tìm hiểu, khám phá
thêm nhiều về vùng đất lính ấy.
-
Em lên Sơn Tây thăm anh trai và có việc cần, nhưng chưa đi đến đó bao giờ, may
quá có anh cùng đi và chỉ giúp cho, em xin cám ơn trước.
-
Lên đó thiếu gì bộ đội, em hỏi ai mà chả được. Thực tình tôi không thích nói
chuyện với cô gái và muốn bứt ra khỏi cô, nhưng cô gái lại không muốn rời khỏi
tôi. Đúng như mọi người thường nói “Con chim chết hụt sợ cành cong”, tâm trạng
tôi lúc ấy là như vậy. Tôi sợ lại gặp phải một người như cô gái ở trên tầu. Vừa
lúc đó, có một chiếc xe buss tuyến Kim Mã chạy đến và chào mời chúng tôi lên
xe. Cô gái vội bảo : “Anh em mình lên xe đi cho nhanh anh ạ”. Ý nghĩ không tốt
lại vụt đến với tôi: “Lần này thì phải cảnh giác - tốt nhất là không nên gần các cô gái, khi
mà mình không quen biết”, nên tôi lại xẵng giọng:
-
Cô cứ đi đi, tôi không đi đâu?
Thực tình tôi không muốn đi cùng cô gái vì trong
túi tiền đã hết, may chăng chỉ đủ tiền đi ô tô từ Kim Mã lên Sơn Tây mà thôi.
Vì vậy, tôi từ chối rứt khoát.
Cô gái vẫn
cố tình năn nỉ:
- Lên xe đi anh, đi bộ đến bến xe chắc
còn xa lắm. Mà anh thì đeo nặng thế kia, bao giờ mới tới được.
Trên xe ô tô, anh phụ xe cũng đang mời
tôi ráo riết và đưa tay kéo tuột tôi lên xe.
- Ừ thì đi! Tôi chặc lưỡi và bước lên
xe, ngồi vào ghế mà hai tay vẫn ôm khư khư chiếc ba lô trong lòng.
Chiếc xe đưa chúng tôi tới bến Kim Mã,
đang chờ mua vé để đi Sơn Tây chuyến đầu tiên, bỗng dưng tôi thấy bụng đau dữ
dội, cơn đau mỗi lúc một tăng dần. Lúc đầu tôi không dám kêu, nhưng đau quá mặt
tôi tái nhợt, bụng đau quằn quại, tôi đành phải kêu lên với cô gái: Anh đau
bụng quá” và tôi gục đầu xuống ba lô thiêm thiếp.
Cô gái nhanh nhẹn chạy tới một hiệu
thuốc gần đó mua về cho tôi mấy viên thuốc chữa đau bụng.
-
Anh uống thuốc đi ! cô gái đưa cho tôi thuốc và cốc nước tự tay cô mua ở nhà
hàng bên cạnh.
Không
biết là thuốc gì, nhưng vì đau quá tôi cứ uống bừa. Tôi nghĩ rằng cõ lẽ phải
nằm lại bến xe mất thôi. Nhưng cô gái đã mua cả vé xe cho tôi và cô, sau đó cô
khoác ba lô cho tôi và dìu tôi ra xe. Tuy đau nhưng tôi vẫn áy náy vô cùng vì
tiền mua vé xe buss và vé xe ô tô chưa có để trả cho cô được. Khi xe chạy, cơn
đau bụng của tôi vẫn không giảm và tôi ngủ thiếp đi lúc nào không rõ. Đến bến
xe Sơn Tây, cô gái gọi, tôi mới giật mình tỉnh giấc người còn rất mệt và cứ
tưởng chiếc ba lô của tôi chắc không còn nữa, nhưng nó và cô gái vẫn bên tôi.
Tôi cùng cô gái xuống xe vào phòng đợt của bến xe ngồi nghỉ. Cơn đau bụng của
tôi cũng đã giảm, có thể nghỉ ngơi một lúc rồi tự về đơn vị được. Cô gái chào
tôi và nói sẽ đi tìm đến đơn vị nơi anh cô đóng quân. Nói rồi cô bước đi ngay,
làm cho tôi không kịp cám ơn cô và trả tiền vé xe cho cô, chỉ còn lại hình ảnh
đẹp của một thiếu nữ như em là vẫn in đậm mãi trong tôi, ấn tượng đó làm tôi
vương vấn mãi.
Gần trưa hôm ấy, tôi khỏi hẳn, rồi khoác ba lô
trở về đơn vị đúng phép. Vừa đi tôi vừa thầm cảm ơn cô gái biết bao, trên đường
trả phép của tôi vừa không may và cũng thật là may. Tôi cứ tự dầy vò mình, tại
sao lại không hỏi tên em và em đến tìm anh trai của mình ở đơn vị nào? Biết đâu tôi có thể chỉ giúp cho cô,
âu cũng là một dịp trả ơn cô gái.
Chiều
hôm ấy, sau khi nghỉ ngơi, tắm giặt sạch sẽ, tôi lên nhà Ban chỉ huy Đại đội
báo cáo là tôi đã trả phép đúng hẹn.
Vào
đến cửa tôi hết sức ngỡ ngàng, cô gái cùng đi và giúp tôi đang ngồi trong phòng
làm việc của Đại đội trưởng.
-
Chào Đại đội trưởng ạ ! - Chào cô... à chào em... Tôi đỏ mặt và ấp úng chào hai
người.
- Ơ anh đã
khỏi đau bụng rồi hả ? Thế anh... anh cũng ở cùng đơn vị với anh Toàn của em à
!
-
Vâng, vâng tôi là lính của Đại đội trưởng Toàn. Nhưng sao em lại ở đây. Thế
mà.... thế mà.... anh đâu biết ? ....
-
Loanh quanh mãi em mới hỏi được đến đây, gớm Sơn Tây sao mà nhiều bộ đội thế !
Đúng là thủ đô của lính, người ta nói quả không sai tý nào.
-
Việt mới lên đấy à ! Vào đây uống nước, mình xin giới thiệu. Đây là Nhung, em
gái tớ, cũng vừa từ dưới quê lên chơi lúc trưa. Vừa nói Đại đội trưởng vừa chỉ
vào cô gái.
-
Vâng ! Chúng em biết nhau rồi anh Toàn ạ ! Cả hai chúng tôi đồng thanh nói.
Sau
đó, tôi kể lại toàn bộ những chuyện xảy ra trên đường trả phép của tôi cho Đại
đội trưởng và Nhung nghe, anh cười ngặt nghẽo mà nét mặt thấy rất vui, giống
như tâm trạng của tôi đến vậy. Còn Nhung thì em cười thật đẹp, em cũng rất vui
khi biết được tôi đã có sự hiểu lầm “nghiêm trọng” về em.
Trong
những ngày Nhung ở lại đơn vị thăm anh trai, chúng tôi vẫn gặp nhau luôn,
thường tâm sự với nhau nhiều điều, thỉnh thoảng Nhung cứ nhắc lại những chuyện
buồn của tôi trên đường trả phép, đôi môi em lại thoáng nở cụ cười tươi và em
giả vờ đấm nhẹ vào lưng tôi, làm người tôi rạo rực.
Trở
lại quê hương em thi đỗ đại học còn tôi cũng trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh vào
trường sĩ quan quân đội. Mùa hè năm đó chúng tôi cùng nhập vào các trường đại
học và cũng từ đây những lá thư mang nặng tình yêu đôi lứa chân thành như tình
cảm của tôi và Nhung những ngày đầu mới gặp, được liên tục đến với nhau. Rồi sau
đó, có sự giúp đỡ của anh Toàn, tình cảm của chúng tôi ngày càng thêm sâu nặng
và không có gì chia sẻ được. Chúng tôi chỉ còn chờ ngày tốt nghiệp ra trường,
để làm lễ kết tóc xe duyên.
Thế
mới biết được, lòng tin đừng để vội mất đi, mà phải biết tin vào con người, tin
vào những tấm lòng nhân hậu và cao thượng của những con người dù là bình thường
nhất. Chính ở đấy sẽ mang đến cho chúng ta những điều may mắn và hạnh phúc bất
ngờ. Hãy tin vào con người và tin vào cuộc sống đang đổi mới từng ngày./.
Nguyễn Văn Lai
KỶ
NIỆM NHỎ KHÓ
QUÊN
Tôi
sinh ra và lớn lên ở thành phố, có cuộc sống tương đối đầy đủ cả vật chất lẫn
tinh thần. Tuổi thơ của tôi thật là dễ chịu, chưa bao giờ phải nếm mùi đói rét,
gian khổ, khi gặp khó khăn tôi đều nhờ vào sự giúp đỡ của Bố Mẹ và người thân,
với tôi cuộc sống cứ êm trôi, tương lai đầy hứa hẹn. Vì vậy, những suy nghĩ của
tôi về cuộc sống cũng rất đơn giản, tôi có biết đâu cuộc đời giống như con sông
trước khi hoà vào biển cả thì phải vượt qua nhiều thác ghềnh khúc khuỷu.
Chỉ đến khi trúng tuyển kỳ thi tuyển
sinh quân sự vào Quân đội, được huấn luyện và công tác trong môi trường đầy
tính kỷ luật, tôi mới thấu hiểu con người có rèn luyện thì mới trưởng thành.
Những ngày đầu là dự bị sĩ quan, tôi ít quan tâm đến mọi người xung quanh, luôn
khép mình trong chiếc giường cá nhân hoặc chỉ làm quen với những chàng lính quê
phố xá, có Cha mẹ là công chức, làm cán bộ to mà thôi, đâu có biết rằng đồng
đội còn nhiều gia đình nghèo lắm. Điều mà tôi mong mỏi nhất là huấn luyện càng
ít càng tốt và nhanh chóng cho hết thời kỳ dự bị sĩ quan được nghỉ hè, nghỉ Tết
hoặc chỉ ít là ngày chủ nhật xin phép đơn vị về thăm gia đình là điều thú vị
nhất. gia đình tôi chưa phải là giàu nhưng cũng tương đối khá giả; Mẹ tôi là
giáo viên của một trường cấp 3 có tiếng; Bố tôi là sĩ quan Quân đội công tác ở
Bộ Chỉ huy quân sự thành phố. Bố, mẹ tôi sinh được hai chị em, tôi là út luôn
được nuông chiều, tuy tôi không nghịch như quỷ sứ nhưng cũng là đứa trẻ khó
bảo. Đôi khi tôi thấy mẹ rất buồn, trong ánh mắt của bà, tôi đọc được điều đó
nhưng cho qua tất cả, bây giờ tôi càng nhận rõ hơn khi bước vào quân ngũ.
Tôi nhập ngũ vào Trường sĩ quan Lục
quân 1 dự khóa huấn luyện dự bị sĩ quan, mẹ tôi mừng lắm. Lúc lên đường, bà căn
dặn: "Con đi cố gắng rèn luyện cho tốt, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ để
trở thành người cán bộ sĩ quan quân đội con nhé, mười tám mười chín tuổi rồi
còn gì". Lúc chia tay mẹ lên đường, tôi vẫn vô tư, nhưng bây giờ mới được
hơn ba tháng huấn luyện tạo nguồn mà thấy nhớ nhà, nhớ thành phố quá, nhất là
nhớ mẹ, suốt một đời mẹ tần tảo lo cho chị em chúng tôi ăn học. Tôi nhớ cả
những buổi sinh hoạt khu phố, những lúc đi chơi với bạn bè quên cả thời gian,
làm mẹ tôi lo đến phát khóc, cái tự do trong khuôn phép của gia đình sao mà dễ
chịu đến thế.
Đã hơn ba tháng huấn luyện rồi mà tôi
chưa được về thăm nhà, nhiều khi tôi thấy nhớ nhà quá, nảy sinh ý định tìm cách
để được về thăm nhà và thành phố. Tuy chỉ thoảng qua nhưng nó cứ lớn dần sau
những buổi huấn luyện chiến thuật và điều lệnh dưới trời nắng gắt, cùng với sự
tác động của những câu chuyện về kỷ niệm, những ngày sống ở thành phố của mấy
đứa bạn cùng trung đội. Nhân ngày nghỉ cuối tuần, chúng tôi được phân công ra
ngoài doanh trại mượn dụng cụ lao động và đã hoàn thành được nhiệm vụ. Thời
gian còn lại trong ngày tương đối dài, trên đường quốc lộ dòng người và xe cộ
qua lại tấp nập, thỉnh thoảng có một chuyến xe ca xuôi về thành phố. Bất chợt
một ý nghĩ loé lên trong đầu, tôi vội nói với hai người bạn cùng đi:
- Chúng mình vẫy xe về thành phố đi,
chiều về doanh trại vẫn kịp.
- Nhất trí !- Hai người bạn đồng thanh
tán thưởng.
Cả ba chúng tôi lên một chiếc xe khách
xuôi về thành phố thuận lợi, hai tiếng sau ai cũng có mặt tại nhà mình. Về nhà
gặp bố, mẹ và chị, gia đình mừng lắm, ai cũng khen tôi tuy có hơi đen một chút
nhưng có phần rắn rỏi, đúng là một anh chàng bộ đội thực thụ rồi. Mẹ nhìn tôi
bằng đôi mắt hiền từ nhân hậu, tôi đọc đượ trong đôi mắt của mẹ sự vui mừng pha
trộn chút ưu tư, đắn đo gì đó. Mẹ nói với tôi:
- Con đi tắm rửa đi, mẹ bật bình nóng
lạnh rồi đấy, sau đó nằm nghỉ cho khoẻ, mẹ ra chợ một lát mua chút gì ăn.
Một lúc sau, trên giỏ xe của mẹ có rất
nhiều thức ăn mà tôi ưa thích. Lâu lắm rồi tôi mới được ăn một bữa cơm thât là
đầm ấm và ngon miệng. Trong cơ quan có việc đột xuất nên ăm cơm xong bố tôi
phải đi làm ngay, ông chẳng kịp hỏi tôi điều gì. Nhìn bố, tôi thấy ánh mắt bố
vui vui, chắc rằng bố mừng lắm, vì thấy tôi trưởng thành. Ở nhà chỉ còn lại mẹ
và chị, bằng tình cảm yêu thương và giọng nói ôn tồn, mẹ hỏi:
- Con về được mấy hôm hả Nam?
- Con về được hai hôm…À, một hôm mẹ ạ! – Tôi ấp úng trả
lời.
- Thế đơn vị cho con về có việc gì hay chỉ về chơi thăm
nhà? – Giọng mẹ thật hiền từ mà tôi nghe như có sự nghi ngờ.
- Không có việc gì đâu mẹ ạ!
- Hình như chưa hết khoá huấn luyện sao lại được về?
- Dạ…con…con…với hai bạn cùng về ạ! – Tôi luống cuống trả
lời.
Thái độ và giọng nói của tôi làm bà phần nào hiểu được sự
có mặt của tôi ở nhà hôm nay.
- Con nói thật với mẹ đi, đơn vị cho con về hay con tự bỏ
về?
- Dạ…dạ…đơn vị cho con về ạ. – Tôi vẫn còn giấu mẹ.
- Con tự bỏ về à? – Giọng mẹ trở nên nghiêm khắc.
- Dạ…dạ…con tự về ạ.
Mẹ tôi im lặng không nói gì, tôi thấy
bà rất buồn, bất giác bà nói với tôi:
- Thôi con uống nước đi, nghỉ ngơi một lúc rồi mẹ con ta
trở lại đơn vị.
- Hay con ở nhà, sáng mai lên đơn vị sớm có được không mẹ?
Mẹ tôi nghiêm khắc nhìn tôi, bà sẵng giọng:
Ở nhà là thế nào? Mẹ
sẽ đưa con lên đơn vị ngay chiều nay.
Chuyến xe chiều từ thành phố đưa tôi
và mẹ trở về đơn vị. Đến nơi, ánh chiều đã tắt, bóng tối dần dần ập đến, tôi
ngượng ngùng dẫn mẹ vào doanh trại nơi tôi huấn luyện. Tuy quãng đường đi bộ
không xa nhưng trên gương mặt của bà đã lấm tấm mồ hôi. tôi thấy thương mẹ quá,
vì tôi mà mẹ phải vất vả lo toan. Vào đến đơn vị đã đến giờ sinh hoạt tối, chỉ
có mình đại đội trưởng ở nhà. Sau khi chúng tôi chào hỏi, anh mời mẹ tôi ngồi
và nói:
- Thưa bác! Chiều nay sau giờ ăn cơm
tối, đơn vị kiểm tra quân số, chúng cháu biết 3 đồng chí Nam, Phương và Bình đi
lao động về muộn, đơn vị đã tổ chức đi tìm nhưng không thấy và bàn sẽ gọi điện
về gia đình. May quá, bác đã đưa em Nam lên đơn vị, đây là điều rất tốt. Tuy
các em là những sĩ quan tương lai nhưng suy nghĩ vẫn còn bồng bột, cần phải có
sự kết hợp giữa gia đình với đơn vị để giáo dục thì mới đạt kết quả tốt và chỉ
có các em mới tự khẳng định được mình mà thôi.
- Vâng, mong các anh bỏ qua những lỗi
lầm của cháu mà rèn rũa các cháu nên người, ở nhà có Bố mẹ nhưng khi vào bộ đội
thì trăm sự nhờ các anh. Về phía gia đình chúng tôi xin cố gắng làm hết trách
nhiệm đối với em.
Sau đó Bà và đại đội trưởng còn trao
đổi nhiều vấn đề, trong đó xoay quanh về cuộc sống của học viên dự bị sĩ quan
và đặc điểm tính chất của nhiệm vụ huấn luyện đối tượng này. Mẹ tôi nghe và tỏ
ý rất thông cảm với điều kiện của đơn vị. Bà bày tỏ lòng biết ơn Quân đội đã và
đang giáo dục, rèn luyện lớp thanh niên trẻ chúng tôi nên người. Vốn là nhà
giáo dục, Mẹ tôi càng hiểu sâu sắc vị trí, vai trò, tác dụng của công tác giáo
dục, uốn nắn con người như thế nào. Tôi chỉ biết ngồi nghe mà ân hận với việc
làm dại dột của mình, may mà hậu quả xảy ra không lớn. Tuy thế sự việc này đã
tác động mạnh mẽ tới tình cảm và nhận thức của tôi.
Đại đội trưởng dẫn Mẹ tôi đi thăm nơi
ăn, ở, sinh hoạt của đơn vị, xem xong Mẹ tôi hài lòng lắm. Đến giờ điểm danh,
Bà theo đồng chí trực ban đến nhà khách của
đơn vị nghỉ lại qua đêm. Còn tôi, đại đội trưởng trả về trung đội dự điểm danh
quân số theo chế độ qui định, anh cũng không quên nhắc tôi làm bản tự kiểm điểm
cá nhân, đơn vị sẽ sinh hoạt đóng góp phê bình sau. Tôi lầm lũi trở về trung
đội, tuy có muộn thời gian so với qui định, song chưa phải là khuyết điểm trầm
trọng nên tôi vẫn nhận được những ánh mắt cảm thông và độ lượng của trung đội
trưởng và đồng đội. Tất nhiên, sau đó tôi vẫn phải kiểm điểm trước đơn vị.
Mẹ tôi ở lại đơn vị chơi cho đến chiều
hôm sau Bà mới đón xe trở về thành phố. Sau khi biết được cuộc sống ăn ở, sinh
hoạt, rèn luyện của chúng tôi, trước khi chia tay đơn vị, Bà nói với tôi:
"Lúc chưa lên Mẹ cứ tưởng con đi bộ đội học sĩ quan chắc là gian khổ, vất
vả lắm, lên đây Mẹ mới hiểu được, tuy có vất vả gian khổ nhưng cuộc sống tập
thể vui quá. Cái quí nhất là các con có tình cảm đồng đội và kỷ luật Quân đội,
thế này thì Mẹ yên tâm rồi. Con ở lại cố gắng theo cho kịp bạn bè, đồng đội;
đừng làm điều gì trái ngược nữa nghe chưa. Muốn làm gì cũng phải quy nghĩ thật
kỹ, đừng để Bố mẹ phải buồn con nhé".
Tiễn Mẹ ra về, tôi cố ghìm lòng mà
nước mắt cứ trào ra lúc nào không biết, tôi chạy đến sà vào vòng tay Mẹ như mọt
đứa trẻ. Hơn lúc nào hết tôi thương Mẹ quá, nhìn vào mắt Bà tôi đọc được tình
thương của Mẹ và thấy mình còn bé nhỏ biết bao.
Tôi
cứ nghĩ rằng mỗi người lính chúng ta đều có Tổ quốc vĩ đại bao la, song ở mỗi
người ai cũng có một người Mẹ hiền từ và nhân hậu. Mình phải sống phấn đấu học
tập, rèn luyện trưởng thành để không phụ tấm lòng bao dung của Mẹ.
Đây là kỷ niệm nhỏ khó quên của tôi
khi đang là học viên dự bị sĩ quan. Tôi tự hứa với lòng mình sẽ giữ mãi kỷ niệm
đầu đời này để khi trưởng thành kể lại cho chiến sĩ của mình nghe, bởi tôi đang
học tập để trở thành người sĩ quan chỉ huy trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Nguyễn Văn Lai
GẶP LẠI NGƯỜI HỌC VIÊN CŨ
Minh là giáo viên của Trường sĩ quan
Lục quân 1, đi thực tế ở một Trung đoàn chủ lực thuộc quân khu phía Bắc và được
điều về Tiểu đoàn 6. Sau khi được Tiểu đoàn trưởng giao nhiệm vụ. Mình được
phân công về Đại đội 5 làm Đại đội phó quân sự. Khi bắt tay tiễn Minh xuống đại
đội, Tiểu đoàn trưởng nói:
Đồng chí về Đại đội 5 làm cấp phó, ở
đó có đại đội trưởng là đồng chí Bùi Ngọc Giới- thượng uý, một đại đội trưởng
trẻ mới được bổ nhiệm, có gì các đồng chí sẽ trao đổi với nhau sao cho công
việc hoàn thành tốt nhé.
Minh vui vẻ khoác ba lô về Đại đội 5,
vừa đi Minh vừa hình dung ra những công việc mà mình phải làm sắp tới, khi nhận
chức đại đội phó. Minh nghĩ, rồi sẽ vất vả và phức tạp lắm đây, không biết đại
đội trưởng là người thế nào và công việc liệu có suôn sẻ như mong muốn không ?-
Là giáo viên ở trường sĩ quan chưa qua thực tế ở đơn vị cơ sở, tất nhiên sẽ có
những hạn chế đến chất lượng công tác. Lần này có điều kiện đi thực tế mình
phải tích cực học tập ở đơn vị cơ sở những kinh nghiệm quản lý, chỉ huy đơn vị
và sẵn sàng chiến đấu để khi về Trường bổ sung vào bài giảng cho sát với đối
tượng đào tạo và yêu cầu nhiệm vụ giảng dạy. Đây là một nhiệm vụ quan trọng mà
Minh cần phải hoàn thành thật tốt trong đợt đi thực tế này. Vừa đi, vừa suy
nghĩ như vậy nên Minh đến nhà Ban chỉ huy Đại đội 5 lúc nào không biết. Vì đã
nhận được điện của Tiểu đoàn là có Minh về thực tế tại đơn vị, nên đón Minh ở
cổng là đồng chí phó đại đội trưởng chính trị, anh cũng còn trẻ lắm. Khi vào
phòng làm việc thì thật không ngờ Bùi Ngọc Giới chạy ra bắt tay Minh rất chặt
rồi hồ hởi nói:
- A! Trung đội trưởng, anh lên đây lúc
nào mà em không biết.
Đồng chí phó đại đội trưởng chính trị
giới thiệu :
- Đây là anh Bùi Ngọc Giới - đại đội
trưởng, còn đây là anh Đỗ Đức Minh, giáo viên của Trường Sĩ quan Lục quân 1 về
thực tế ở đại đội ta.
- Vâng, vâng! Chúng tôi biết nhau rồi.
Xin giới thiệu với anh Thuận, đây là anh Minh trước là trung đội trưởng của tôi
hồi còn học Trường Sĩ quan Lục quân 1. Giới vừa nói vừa chỉ vào Minh và giới
thiệu với đồng chí phó đại đội trưởng chính trị như vậy.
Sau khi ngồi vào bàn uống nước, Minh
đưa giấy giới thiệu của Tiểu đoàn và nói với hai người:
- Minh được điều về Đại đội 5 này làm
cấp phó cho Giới, may quá lại gặp người quen cũ, mình chắc là công việc sẽ tốt
đẹp phải không?
- Thật không ngờ anh Minh a! Khi nhận
được điện của Tiểu đoàn em cứ tưởng là anh Minh nào. Thôi thế thì tốt quá rồi.
Trước kia ở Trường anh đã giúp em nhiều mới có sự trưởng thành như ngày nay.
Bây giờ lại được anh giúp cho, chắc em sẽ hoàn thành tốt chức trách đại đội
trưởng mới mẻ này anh nhỉ?.
- Minh cũng phải nhờ vào Giới giúp đỡ
đấy! Có lẽ chúng ta cùng giúp nhau trong công việc để hoàn thành nhiệm vụ thì
tốt quá phải không? Minh nói với Giới như vậy.
*
* *
Ngày ấy, Minh là trung đội trưởng, còn
Bùi Ngọc Giới là học viên của trung đội do Minh quản lý, chỉ huy. Mơi ra trường
nên Minh chỉ huy trung đội đúng "bài bản" như vừa được học. Giới là
học sinh phổ thông thi vào Trường Sĩ quan, là con trai thanh phố cảng. Giới học
tập có phần chểnh mảng, đặc biệt là chấp hành kỷ luật không nghiêm lắm. Vì vậy
nhiều lúc làm Minh phải bực mình và cáu gắt. Giới vốn thông minh và linh hoạt,
học tập cậu ấy tiếp thu rất nhanh bài giảng, song lại ngại rèn luyện kỷ luật và
thực hành luyện tập. Minh nắm bắt được điều ấy ở cậu ta, do vậy Minh hay để ý
đến Giới và có ý sẽ giúp cậu ta phấn đấu học tập, rèn luyện cho tốt để theo kịp
với bạn bè, đồng chí. Tuy thế, nhưng do không hiểu được ý định tốt của nhau; vì
vậy, trong học tập, sinh hoạt và rèn luyện Giới đối với Minh "bằng mặt
không bằng lòng".
Có lần Minh đi kiểm tra học viên trong
giờ "tắt đèn đi ngủ" nghe tiếng Giới nói với những người bên cạnh,
Minh đứng lại nghe hết được câu chuyện.
- Gớm cái môn Chiến thuật tổng hợp
thật là phức tạp, bài học đã khó lại còn phải lăn, lê, bò, trườn, nhất là nằm
mà đào công sự dưới làn hoả lực địch nữa chứ, bẩn hết cả quần áo, đau hết cả
người. Ngày mai đến phần luyện tập tớ phải tránh bằng được cái món đào công sự
ấy. Sau này tốt nghiệp là sĩ quan mình có phải đào đâu mà sợ.
Minh nghe được những điều ấy và cảm
thấy không vừa long, Minh thầm nghĩ trong buổi học ngày mai mình đích thân chỉ
huy tiểu đội của Giới luyện tập phần đào công sự dưới lầm hoả lực địch.
Ngày hôm sau, Minh sử ra tình huống
tập đi tập lại nhiều lần cho đến khi cả tiểu đội, nhất là đối với Giới thành
thục động tác mới thôi. Nhìn chung học viên
trong tiểu đội không phấn khởi lắm. riêng Giới phản ứng ra mặt nhưng không dám
là gì, chỉ thì thầm nói nhỏ với nhau: "Ông Minh, ông ấy ghét tiểu đội mình
nên ông ấy rèn mạnh quá nhất là đối với cậu Giới, ông ấy ghét nhất cậu
đấy".
Một lần khác, khi đơn vị tổ chức phát
quân trang cho học viên buổi sáng thì đến tối Giới cùng với một vài người nữa
mang số quân trang vừa phát ra quán bán uống ruợu. Do đã đoán được điều đó nên
Minh đã bắt được, số quân trang đó MInh không cho bán và bắt mang về đơn vị để
các cậu ấy sử dụng cho sinh hoạt và học tập. Nhưng vì họ đã chót lấy tiền trước
uống ruợu rồi nên Minh phải xuống tài chính đơn vị ứng phụ cấp của Giới và mấy
người kia trả nợ cho chủ quán. Cũng từ vụ này, Giới lại càng tỏ ra khó chịu và
phản ứng ra mặt với Minh. Nhưng Minh vẫn nghiêm khắc quản lý, chỉ huy đơn vị
hoàn thành tốt các nhiệm vụ, tuy rằng cũng có đôi chút máy móc của Nhà trường
chính qui.
Cuối năm đó, trong đợt đóng góp phê
bình đảng viên trước quần chúng. Minh là người mà được các bản phê bình của học
viên nói đến nhiều nhất. Nào là rèn luyện quá sức học viên, nào là máy móc rập
khuôn, tuy rằng bản chất là tốt nhưng chỉ huy thì cứng nhắc, v.v…
Rất may mắn, Minh được cấp trên điều đi học giáo viên và
cũng từ đây Minh rút ra được nhiều bài học. Mùa hè năm ấy học viên ra trường.
Bùi Ngọc Giới thì tốt nghiệp quốc gia đạt kết quả cao, cả hai môn thi đều đạt
điểm giỏi và được phong quân hàm sĩ quan cấp trung uý.
*
* *
Bây giờ, Đỗ Đức Minh- thượng uý về làm đại đội phó, còn Bùi
Ngọc Giới – Thượng uý là đại đội trưởng của Đại đội 5 này.
- Anh Minh ạ ! Em rất phấn khởi được
gặp lại anh, em ân hận quá, không biết thời gian có làm cho anh hiểu được em
không? Bây giờ em mới thấm thía những ngày học tập ở Trường, em không hiểu anh
nên em chia tay anh không một lời chào từ biệt.
Giới xúc động nói với Minh như vậy,
rồi cậu kể: Lần ấy thi tốt nghiệp quốc gia em gặp phiếu thi đúng câu hỏi chiến
thuật tổng hợp có phần đào công sự dưới làn hoả lực địch, bởi có luyện tập
thành thục nên em thực hành tốt và được điểm giỏi. Ra trường em là một trong số
ít học viên được phong quân hàm trung uý. Đến bây giờ là cán bộ quản lý, chỉ
huy bộ đội em mới biết được những khuyết điểm của chiến sĩ nếu không được quan
tâm nhắc nhở, uốn nắn thì sẽ tai hại biết chừng nào, cũng như những vất vả,
gian khổ của người trung đội trưởng. Có sâu sát gần gũi với chiến sĩ thì mới
biết được những khuyết điểm của họ để có biện pháp quản lý và giáo dục. Em đã
học được ở anh điều ấy, hôm nay em đã trở thành đại đội trưởng. Thế mà…, giọng
Giới trùng xuống- thế mà… ngày ấy chúng em nghĩ sai về anh, chúng em phê bình
anh nhiều quá, làm đơn gửi cấp trên nữa chứ.
Cái sự không công bằng là thế đấy, đôi khi người tốt, cứ bị hiểu sai và phải
chịu thiệt thòi mãi. Nếu như cấp trên không sáng suốt, không có con mắt nhìn xa
trông rộng thì… Anh uống nước đi…, hôm nay chúng em phải tổ chức bữa liên hoan
thân mật đón anh thật vui vẻ và chân thành như tấm lòng biết ơn của chúng em
vậy. Rồi đây, có sự giúp đỡ của anh, em tin chắc rằng Đại đội 5 của chúng ta sẽ
là đơn vị vững mạnh toàn diện và em sẽ hoàn thành tốt chức trách đại đội trưởng
của em. Anh lúc nào cũng là người anh, người thầy giáo của em…
Minh cầm chén nước đưa lên môi mà lòng
không khỏi xúc động. Bùi Ngọc Giới – người học viên của trung đội do Minh quản
lý năm xưa, ngày nay đã là một đại đội trưởng trẻ tuổi và cứng cáp như thế này
chăng ? Những ngày thực tế ở trung đoàn. Minh được chứng kiến những việc làm
của Giới trong công tác chỉ huy, quản lý đơn vị. Minh càng thấy rõ ở Giới có
năng lực thực sự của người cán bộ quân sự. đúng là qua quá trình học tập, rèn
luyện trong Nhà trường cùng với thực tế hoạt động tại các đơn vị cơ sở sẽ tạo
nên cho người sĩ quan tác phong quân sự chững chặc. Tất nhiên chỉ có Giới mới
tự khẳng định được mình mà thôi, từ những bài học không mấy dễ dãi ở nhà trường
cộng với sự cố gắng nỗ lực của bản thân, anh đã trưởng thành. quá trình công
tác anh vẫn thường tâm sự với mọi người.
Kiến thức học trong Nhà trường là rất quí, nó là điều kiện, là cơ sở để cho
người cán bộ làm việc, nhưng nó cũng sẽ mai một đi theo năm tháng, nếu người sĩ
quan không tự rèn luyện mình thì sẽ bị tụt hậu, có bay cao, bay xa được hay
không thì mỗi người phải có sự cố gắng vượt bậc. Tuy nhiên, tất cả phải bắt
nguồn từ cái gốc, đó là những năm tháng chập chững vào đời, những bài học đầu
tiên trong Nhà trường sĩ quan, dù vật vả, gian khổ nhưng nó là hành trang quí
báu của người cán bộ quân sự. Cái may mắn của chúng ta là được học tập tại
Trường Sĩ quan Lục quân 1. đây là điều kiện thuận lợi nhất để phấn đấu vươn
lên.
Minh cứ tưởng rằng nhiệm vụ đi thực tế
của mình rồi sẽ khó khăn, thế mà bước đầu lại mở ra một cách tốt đẹp như vậy.
Từ đây, MInh luôn nghĩ rằng chỉ có vì công việc, vì đồng đội cùng với tình
người, tình đồng chí đồng đội và sự nhiệt tình sẽ là "mẹ" của mọi
thành công. Đừng bao giờ sợ một cái gì khi mà mình thương yêu nó, hết lòng vì
nó, nhất là con người.
Nguyễn Văn Lai
CHIẾC ỐNG
NHÒM CHO MƯỢN
Vòng hành quân dã ngoại học về địa hình quân sự và công tác
tham mưu của đơn vị, Nguyễn Văn Thường đã bước sang ngày thứ sáu. Xuất phát từ
Công trường 50, tiểu đội của Thường đi qua xóm Bãi, xóm Chóng, qua Cao điểm 53
và dừng chân ở bản Gò Sống. Đây là một bản người Mường thuộc huyện Ba Vì (Hà
Tây) nằm dưới chân núi Tản Viên. Tiểu đội của Thường nghỉ nhờ trong nhà một cô
giáo trưởng làng còn rất trẻ. gia đình cô giáo chỉ có ba người, Mẹ, cô giáo và
một cậu em trai khoảng mười bốn tuổi.
Căn nhà sàn lợp ngói khá rộng đủ chỗ
cho cả tiểu đội của Thường nghỉ ngơi và sinh hoạt, có nơi để ba lô, xoong chậu,
mỗi người một khẩu súng, một la bàn và một ống nhòm phục vụ cho học tập, chủ
yếu là tập cắt góc phương vị trên địa bàn vùng rừng núi. Việc bảo đảm an toàn
cho vũ khí trang bị được cấp trên nhắc nhở, quán triệt đầy đủ, trong tiểu đội
ai cũng ý thức được điều này, đặc biệt là đi học dã ngoại đường dài và đóng
quân trong nhà dân.
Ngay từ chiều đến nhà cô giáo Hoà,
toàn tiểu đội đã tổ chức làm công tác dân vận giúp gia đình như : quét dọn xung
quanh nhà, bổ củi, sắp xếp lại nơi ngủ nghỉ của tiểu đội… Ai cũng thấy vui vẻ
và như trút được những mệt nhọc sau chặng đường hành quân dài ngày. Buổi tối
hôm đó, sau khi trò chuyện làm quen, cô giáo Hoà nói chuyện với tiểu đội Thường,
ban đầu cô giáo còn dè dặt, sau đó quen dần, thỉnh thoảng coco lại chen vào một
vài câu hài hước, khoảng cách giữa chủ và khách cứ ngắn dần. Biết được nơi đây
gần Ao Vua, một địa điểm du lịch nổi tiếng nên Thường hỏi cô giáo.
-
Cô giáo ơi! Nghe nói khu vực này gần Ao Vua, ở đó đẹp lắm phải không?
- Đúng đấy anh ạ! Bây giờ ở đấy đẹp và
vui lắm, mùa du lịch người Hà Nội lên
rất đông.
- Thế à! Không hiểu chúng tôi có thời
gian mà đi thăm Ao Vua được không? - Thường lại hỏi:
Nếu được nghỉ, các anh đi thăm Ao Vua
tắt qua hai quả đồi trước mặt cho gần. Vừa nói cô giáo vừa chỉ tay ra phía
trước nhà trong khoảng trời tối mịt.
Thế sao lại gọi là Ao Vua hả cô giáo?
- Thường lại tiếp tục hỏi.
- Chuyện dài lắm mà là truyền thuyết
lịch sử đấy các anh ạ! Em sẽ kể các anh nghe.
Cô giáo bắt đầu kể cho tiểu đội của
Thường nghe truyền thuyết Ao Vua, giọng cô giống như đang giảng bài cho học
sinh vậy.
"Ngày xửa, ngày xưa vào thời Hùng
Vương đất nước ta bị quân giặc xâm lược, Vua Hùng mang quân đi chiến đấu chống
giặc nhưng thế giặc mạnh quá, nhà Vua không chống nổi, quan quân tan tác mỗi
người một phương. đường cùng, nhà Vua phải bỏ kinh thành rút chạy cùng với một
số ít tướng sĩ. Khi rút chạy từ Phong Châu (Phú Thọ) về đến bờ sông Đà, nhà Vua
gặp một nhà Chiêm Tinh- Vua hỏi nhà Chiêm Tinh nọ :
- Thần có thể cho ta biết liệu ta có
lấy lại được đất nước này không? Hiện nay thành ta đã mất, quân ta đã tan, sức ta đã tàn,
lương ta đã kiệt.
- Thưa nhà
Vua, bên kia sông Đà là núi Tản Viên, nhà Vua nên vượt qua sông mà sang núi đó.
Từ đây đến núi Tản Viên cũng không xa, đi ngay bây giờ đến giờ Ngọ là có thể
tới được. Giữa trưa nhà Vua đi qua đó nếu nghe tiếng gà sống gáy thì cơ đồ của
nhà Vua chưa bị mất. Nếu không nghe tiếng gà sống gáy thì coi như sự nghiệp của
nhà Vua đã hết.
Nghe lời
nhà Chiêm Tinh nói như vậy, nhà Vua cùng quân lính còn lại vượt sông Đà đến gần
chân núi Tản Viên đi qua một gò đất thấp, quả nhiên nhà Vua nghe tiếng gà sống
gáy giữa ban trưa. Tin lời nhà Chiêm Tinh, vua và quân lính vững tin lui vào
núi Tản Viên lập căn cứ kháng chiến. Các tướng sĩ bị lưu lạc nghe tin Vua lánh
nạn ở đây lần lượt tìm về. Quân tướng ngày một đông thêm, tại căn cứ dưới chân
núi Tản, vua chú trọng luyện tập quân sĩ ngày đêm chuẩn bị cho cuộc chiến đấu
giành lại đất nước. Ở vùng núi Ba Vì này, có một thác nước từ lưng chừng núi đổ
xuống tạo thành một vực sâu, nước xanh ngăn ngắt, không khí mát dịu, nhà vua
đặt đại bản doanh gần đó. Thường ngày vua vẫn dùng nước ở đây để ăn uống, sinh
hoạt, tắm giặt…Sau này cuộc kháng chiến thành công, nhà Vua lấy lại được đất
nước và ngự giá trở về Kinh đô. Từ đó về sau nhân dân vùng này vẫn thường gọi
nơi Vua tắm là Ao Vua, còn gò đất mà nơi Vua đi qua đã nghe tiếng gà sống gáy
sau này dân cư đến ở thì gọi là bản Gò Sống, Bản Gò Sống cũng là nơi có truyền
thuyết lịch sử gắn với chiến công dựng nước và giữ nước. Cả Ao Vua nữa, nếu đến
thăm mà không biết truyền thuyết về nó thì chưa thể cảm nhận được hết vẻ đẹp
đặc sắc của nó phải không các anh?. Bởi vậy, Ao Vua bây giờ là nơi du lịch đầy
thơ mộng, đông khách đến thăm. Người ta cho rằng được đến thăm Ao Vua đã là may
mắn lắm rồi, nhưng đến Ao Vua và được tắm, được uống nước Ao Vua, được hưởng
không khí mát mẻ nơi thần tiên ấy thì con người cảm thấy thanh thoát hơn, sẽ
gặp nhiều may mắn hơn trong cuộc sống. Học tập ở trên này các anh nên tranh thủ
đến thăm Ao Vua một lần".
Cô giáo
say sưa kể về Ao Vua với tiểu đội của Thường như một người hướng dẫn viên du
lịch, làm cho mọi người rất thích thú, bởi ai cũng đã biết thêm nhiều điều mới
lạ về Ao Vua. Riêng Thường thầm nghĩ "Bất cứ giá nào cũng phải đến thăm Ao
Vua một lần". Nhưng rồi việc học tập luôn là nhiệm vụ không thể bỏ được,
bởi một lần đi học dã ngoại như thế này là một lần đi vòng tổng hợp khép kín
nên việc đến Ao Vua là khó thực hiện được.
Thế rồi,
vào buổi trưa hôm sau, khi một người đang cắm cúi làm bài tập chuẩn bị cho buổi
chiều tập bài thực hành., Thường đã trốn ra khỏi nơi ôn bài và không quên mang
theo chiếc ống nhòm, Thường tìm cậu em trai của cô giáo rut theo dẫn đường đến
Ao Vua. Sơn (tên cậu bé) lại rủ thêm một người bạn cùng đi với Thường, cả ba
người đi tắt qua những quả đồi đến một sườn núi nhìn xuống Ao Vua cách không xa
khoảng 100 đến 300m, Thường thấy một vùng thiên nhiên thật là thơ mộng. Thác
nước đổ xuống trắng xoá, phía dưới là Ao Vua nước xanh ngăn ngắt, xung quanh là
vườn trầu nở đầy hoa trắng ngần, Thường bảo hai cậu bé dừng lại ở một lưng
chừng đồi dưới gốc một cây trầu cũng rụng đầy hoa trắng. Hôm ấy ngày chủ nhật,
khách đến tham Ao Vua rất đông, màu hoa hoà vào sắc áo làm Ao Vua như một bức
thảm đẹp vô ngần. Quan sát bằng mắt thường đã thích, khi nhìn bằng ống nhòm lại
càng thú vị hơn. Đang buổi ban trưa, từng lớp, từng tốt trai gái ngồi trên các
tảng đá gần sát Ao Vua hoặc dưới những gốc cây rụng đầy hoa trắng. Họ ngắm
cảnh, ăn uống, nói cười vui vẻ, trông nhộn nhịp, đông vui quá. Các cậu bé cứ
đòi Thường trao ống nhòm cho xem thử và chúng tranh nhau nhìn ngắm Ao Vua, nét
mặt chúng đầy những hoan hỉ như vừa mới khám phá ra những điều huyến bí của một
thế giới thần tiên.
Rất muón
được đến tận nơi có dòng nước trong mát của Ao Vua, nhưng sắp đến giờ học buổi
chiều, Thường phải quay về để học tập, Thường lấy ống nhòm mang về nhưng bọn
trẻ cứ nài nỉ mãi:
- Anh Thường! Anh
cho chúng em mượn ống nhòm một lúc, tý nữa am cầm về trả anh ngay- Cậu Sơn
thiết tha nói: Không được đâu các em!- Thường trả lời dứt khoát, anh phải mang
về để học, hơn nữa sợ các em làm mất thì anh bị kỷ luật.
-
Anh đừng lo! tý nữa là em cầm về ngay thôi mà, anh ở trong nhà em chứ đi đâu mà
sợ. Chúng em đang xem thích quá anh ạ. Ống nhòm của anh xem rõ quá.
Ngẫm nghĩ một lát rồi Thường đồng ý và
nói:
- Thôi cũng được! nhưng tý nữa cầm ống
nhòm về thì Sơn phải bí mật đưa cho anh nhé, đừng để cho ai biết mà rầy rà nghe
chưa.
Nói xong, Thường chạy vội vã, về đến
nơi cúng là lúc đơn vị chuyển địa điểm học tập, không trú quân ở bản Gò Sống
nữa. Thường vội vàng vào nhà khoác ba lô, súng và trang bị chào gia đình và cô
giáo, rồi nhanh chóng chạy vào hàng quân mà lòng đầy lo lắng. ống nhòm của
Thường cậu Sơn mượn vẫn chưa mang về, chiếc vỏ ống nhòm thường khoác bên hông
nhẹ tênh mà lòng Thường nặng trĩu. Tiếng trung đội trưởng nhắc vang vang bên
tai:
- Trước khi hành quân đến địa điểm học
tập mới, mỗi cá nhân kiểm tra lại vũ khí, trang bị. đơn vị ta rời khỏi đây là
không quay lại nữa, học xong khoa mục "cắt góc phương vị" sẽ trở về
doanh trại luôn.
Lòng Thường như lửa đốt, biết làm sao
được! báo cáo thì sợ bị khuyết điểm, mà không nói ra thì làm sao lấy được ống
nhòm? Thường cứ im lặng, hòng nghĩ kế gì để lấy được ống nhòm thì tiểu đội
trưởng đã kiểm tra đến trang bị của Thường. Anh phát hiện ra Thường chỉ còn đeo
chiếc vỏ ống nhòm không. Khi hỏi ống nhòm đâu, Thường cứ quanh co nói dối là bị
rơi trên đường hành quân hôm đến bản này. Khi tiểu đội trưởng bảo đi tìm thì
Thường đành thú nhận là đã cho bọn trẻ con mượn đi chơi Ao Vua chưa về.
Trung đội trưởng đành hoãn cuộc hành
quân muộn hơn thời gian qui định để Thường quay lại cây trầu, nơi bọn trẻ giữ
ống nhòm của Thường. Nhưng đến nơi bọn trẻ không còn ở đấy nữa. Tìm mãi xuống
khu vực gần Ao Vua nơi đông người du lịch vẫn không thấy các em đâu.
Khi ánh hoàng hôn buông xuống Ao Vua,
Thường mới thấy chúng từ trên một cây to lá rậm đang tụt xuống, vì mải quan sát
khách du lịch ra về nên chúng chẳng nhìn thấy Thường đi tìm. Thường lấy được
ống nhòm, cùng hai đứa trẻ chạy vội về vị trí tập trung thì đơn vị đã hành quân
từ lâu. Thường đang loanh quanh không biết xử trí ra sao thì Hoà- cô giáo
trường làng, cô chủ gia đình đã đứng trước mặt Thường- Cô đưa cho Thường tờ
giấy có những dòng chữ của trung đội trưởng gửi lại cho Thường, cô nói:
- Đơn vị anh hành quân từ lâu, chờ mãi
không thấy anh về, các anh ấy quay lại nhà em, kể cho em nghe một chuyện và nhờ
em đưa lá thư này cho anh.
Thường
đọc lá thư của trung đội trưởng, anh dặn rằng "nếu Thường lấy được ống
nhòm thì từ vị trí tập trung ban đầu (thôn Gò Sống) có thể đia theo đường mòn,
xác định trên bản đồ và thực địa để hành quân theo đơn vị. Cũng có thể cắt góc
phương vị theo bài tập để hành quân. đúng giờ N trung đội sẽ đợi Thường tại toạ
độ X. Chú ý đi theo đường mòn phải vận động khẩn trương vì quá giờ N trung đội
tiếp tục hành quân đến địa điểm khác. Nếu Thường đi theo góc phương vị phải xác
định thật chính xác vì phải vượt qua đồi núi, nếu không cẩn thận sẽ bị lạc…"
Thường
đọc xong lá thư mà lòng vô cùng lo lắng, xen lẫn sự ân hận vì những hậu quả mà
mình gây ra. Do đi tìm ống nhòm trở lại quá muộn, nếu hành quân theo góc phương
vị đến toạ độ X đường sẽ ngắn hơn nhưng có thể bị lạc.
Cô
giáo Hoà thấy Thường bối rối ra mặt cũng sốt ruột hỏi Thường:
-
Bây giờ anh định về nhà em nghỉ, hay quyết định đi tìm đơn vị?
Anh
phải đi ngay, nếu không theo kịp đơn vị thì gay go em ạ- Thường trả lời trong
sự lúng túng. Sau đó Thường mở bản đồ tìm toạ độ X và thấy toạ độ X ở gần bản
S, Thường vội hỏi Hoà:
-
Em có biết đường tắt đi từ đây đến bản S không?
-
Có chứ! đường từ đây sang bản S nếu theo đường mồn khoảng 8km, nếu đi tắt vượt
đồi, rừng cchỉ khoảng 4km thôi anh ạ! Có việc em đi sang đó toàn đi theo đường
tắt này thôi.
-
Thôi nhé! Chào Hoà và Sơn, anh phải đi gấp cho kịp đơn vị.
Nói
xong, Thường khoác ba lô, trang bị bước vội theo hướng đã xác định về bản S,
nhưng Hoà và Sơn chạy theo nói:
-
Để chúng em dẫn anh đi theo lói tắt, nếu không núi cao rừng rậm, trời tối anh
sẽ bị lạc đấy. Khổ quá chỉ tại cậu Sơn nên anh phải vất vả đấy thôi.
Tuy
cũng hơi ngại nhưng không còn cách nào khác nên Thường đành chấp nhận để Hoà và
Sơn dẫn đường đi.
Như
biết lỗi, Sơn lầm lũi đi trước mở đường, thì còn Thường và Hoà đi sau. đường
rừng sứ dần dần khó đi, nhiều đoạn ba lô, trang bị của Thường bị cây rừng cản
lại, có đoạn Hoà phải đưa tay kéo Thường lên mới vượt được những vách thụt của
núi cản đường. Tay Thường nắm tay Hoà nóng hổi, Thường đã được cầm tay con gái
lần nào đâu. Tự nhiên có một tình cảm lạ lùng xao động con tim làm Thường cứ
muốn được nắm được nắm tay Hoà mãi trên con đường rừng gập ghềnh khúc khuỷu.
Trong ánh hoàng hôn sắp tắt, thường ngước nhìn Hoà thấy hai bò má em ủng đỏ. Cú
mỗi lần tay Thường chạm tay Hoà thì ánh mắt hai người vội bắt gặp nhau rồi lại
vội quay đi. Chưa nói điều gì nhưng Thường hiểu lòng Hoà cũng có điều gì xao
xuyến.
Đến
bản S gần toạ độ X, Thường chia tay Hoà và Sơn, sau cái bắt tay nồng ấm là ánh
mắt Hoà nhìn nửa như chờ đợi, nửa như thông cảm. NHìn thẳng vào mát Hoà, Thường
vội nói:
- Tạm biệt các em!
Rồi có ngày anh sẽ trở lại bản Gò Sống. Cảm ơn các em đã đưa anh tới đây.
Nói xong, Thường chạy vội về toạ độ X, khi Thường đến nơi đơn vị cũng sắp
sửa lên đường tiếp tục hành quân chuẩn bị cho một bài tập mới. Mặc dù Thường cố
quên đi tất cả để tập trung cho nội dung học tập nhưng kỷ niệm vui buồn về bản
Gò Sống, về Hoà và Sơn cứ lẫn lộn không phai. Hình ảnh cô giáo trường làng cứ in đậm
mãi trong Thường. Thường rất nhớ về tình cảm gia đình ấm cúng và một Ao Vua
trong truyền thuyết mà Hoà đã kể cho Thường và tiểu đội nghe.
Đợt hành quân dã ngoại năm ấy, kết quả học tập của Thường
không mấy mĩ mãn, cộng với cái án phê bình trước trung đội, khiến Thường thấy
thấm thía mãi. chính vì vậy, mà năm học cuối Thường đã phải cố gắng trên tất cả
các mặt để có kết quả khá khi ra trường, nhất là việc chấp hành kỷ luật và
Thường tạm quên bản Gò Sống. Nhiều lần Thường muốn lên thăm, song phần vì thiếu
thời gian, phần vì thiếu phương tiện nên ý định không thành. Thế rồi công việc
ôn thi cuối khoá cứ chuốn hút Thường. Tình cảm với cô giáo đành phải gác lại
một bên. Thường tự nhủ với lòng mình khi nào có thời cơ thuận lợi thì sẽ trở
lại Gò Sống thăm cô giáo.
Sau khi ra trường và đã phát triển thành đại đội phó
thuộc một Binh đoàn chủ lực đóng ở bên kia bờ sông Đà thì chính Sơn, cậu bé của
bản Gò Sống năm xưa, nay đã là chiến sĩ mới của đại đội Thường. Gặp lại Sơn tự
nhiên những kỷ niệm về bản Gò Sống, về Ao Vua và về Hoà - cô giáo trường làng
lại trỗi dậy trong Thường.
Gặp
lại nhau tâm sự, Sơn thật thà kể:
-
Chị em vẫn dạy học ở bản, chị ấy nhắc đến anh Thường luôn, chị cứ trách anh sao
chẳng thấy đến chơi.
Thường
nghe Sơn kể mà lòng chộn rộn, nhứng ký ức ngày xưa lại bùng cháy, Thường hẹn
với Sơn:
- Kết thúc khoa huấn luyện tân binh này, anh và Sơn sẽ về
thăm lại bản Gò Sống.
-
Vâng, mời anh về quê em chơi và đi thăm Ao Vua ạ! Ở đó bây giờ khác trước, đẹp
và vui hơn nhiều anh ạ.
Một
Sáng tháng năm, Thường cùng Sơn về Ba Vì, về thăm lại bản Gò Sống, thăm cô giáo
trường làng. Gặp lại Hoà, Thường không dám vồ vập nhưng từ trong đáy lòng dường
như có từng con sóng đang dồn nén đến cồn cào.
-
Tưởng anh quên hẳn Ao Vua rồi, chắc tên làng này anh không còn nhớ nữa phải
không?- Hoà nói với giọng dỗi hờn.
Không, không!- Thường vội trả lời- Ao Vua thì có thể
quên, nhưng bản Gò Sống và người bản Gò Sống thì anh không thể quên được. Anh
chỉ sợ nhất là em không nhận ra anh mà thôi. Em vẫn nhận ra anh, điều đó đã làm
anh hạnh phúc rồi.
Bất
giác Thường thấy má Hoà ửng đỏ như hôm nào, Thường nắm bàn tay em, chưa khi nào
Thường thấy Hoà đẹp như thế.
Một
ngày nán lại bản Gò Sống, Thường rủ Hoà đi thăm Ao Vua, nhưng thấy Hoà có vẻ
còn đắn đo, Thường nói:
-
Lần trước anh đi thăm Ao Vua bị mắc khuyết điểm bỏ đơn vị, bỏ việc học tập làm
ảnh hưởng đến tập thể. Lần này được tự do đi thăm Ao Vua, lẽ nào lại buồn hơn
trước. Anh muốn em cùng đi, em đã kể truyền thuyết về Ao Vua cho anh nghe nhưng
để được chứng kiến cảnh đẹp Ao Vua thì anh muốn em là người hướng dẫn du lịch
cho riêng anh.
Thế
là Hoà vui vẻ nhận lời, hôm đó cũng vào ngày chủ nhật trong sự ồn ào náo nhiệt
của nơi du lịch nổi tiếng, có một đôi trai gái sánh vai nhau đi đến Ao Vua. Một
người là bộ đội còn người kia là cô giáo trường làng - đó chính là Thường và
Hoà. Một ngày du lịch quả là quá ngắn ngủi khi có bạn gái ở bên. Vùng núi bóng
tối ập đến nhanh nhưng hai người vẫn ngồi trên tảng đá tâm sự. Tình cảm tuy
chưa thật đậm đà nhưng hiểu nhau cũng khá nhiều. Thường mạnh dạn ngỏ lời yêu
Hoà, khiến Hoà vô cùng bối rối. Bất giác đoi bàn tay nhỏ nhắn của em nằm gọn
trong đôi tay thô ráp của Thường và rồi tình yêu của đôi trai gái cũng đến,
muộn màn đôi chút nhưng ẩn giấu bao kỷ niệm vui buồn.
Nguyễn
Văn Lai
NHỮNG QUẢ
BỘC PHÁ CHƯA
NỔ
Hợp là sĩ quan mới ra trường nên trong
huấn luyện Hợp mới chỉ đảm nhiệm làm trợ giáo hoặc phụ trách quân xanh phục vụ
cho luyện tập. Hôm ấy, Hợp được giao nhiệm vụ cùng với đồng chí đại uý Phạm Văn
Quang- đại đội trưởng đảm nhiệm huấn luyện bài "Đại đội pháo binh trong
chiến đấu tiến công" có sử dụng thuốc nổ tượng trưng cho điểm nổ của đạn
để sửa bắn. Bài giảng được tiến hành trôi chảy, thu hút sự chú ý của chiến sĩ
trên thao trường.
Đại đội pháo binh 1 có nhiệm vụ hiệp
đồng với Trung đoàn bộ binh 2 đảm nhiệm tiến công trên hướng chủ yếu… Giai đoạn
đánh chiếm tiền duyên, đại đội dùng hoả lực bắn chuẩn bị 30 phút vào các điểm
cao 203, 102…Sau đó chuyển làn bắn vào tung thâm địch ở đồi Đá, đồi Nghĩa Địa…
Anh Quang sau khi lên lớp lý thuyết
bước vào phổ biến nhiệm vụ cho đại đội và triển khai trận địa luyện tập, chỉ vị
trí đài quan sát, nơi bố trí quân xanh. Chiến sĩ các khẩu đội nhanh chóng chạy
đến các vị trí pháo của mình để luyện tập. Hợp được phân công duy trì một khẩu
đội tập bài theo tình huống chiến thuật kết hợp với kỹ thuật bắn pháo. Huấn
luyện bắn pháo nhưng thực chất là "bắn khan". Lấy phần tử bắn vào các
mục tiêu trên các điểm cao như đã được giao nhiệm vụ, sau đó tập sửa bắn, cơ
động và thiết kế trận địa. Không khí học tập rất sôi động, mỗi người một việc,
Hợp đã thể hiện vai trò trợ giáo của mình rất có hiệu quả. Hợp ra những tình
huống phụ chỉ cho chiến sĩ cách xử trí hợp lý, thao tác nhanh nhạy. Là cán bộ
mới ra trường nên Hợp kiểm tra tỷ mỷ, sát sao mọi động tác và hành động của
chiến sĩ. Buổi học được tiến hành một cách tốt đẹp, báo hiệu ngày huấn luyện
thành công.
Sau khi nghỉ giải lao giữa giờ xong,
đơn vị chuyển sang giai đoạn tập tổng hợp. Hợp lại được phân công phụ trách
quân xanh. Nhiệm vụ của bộ phận quân xanh hôm nay là đánh thuốc nổ tượng trưng
cho điểm nổ của pháo bắn, phục vụ cho các khẩu đội pháo tập sửa bắn và xử trí
các tình huống theo đầu bài tập.
Hợp cùng với hai chiến sĩ phục vụ quân
xanh là Hoà và Thạch đến khu vực điểm cao 203, 102 để bố trí bài thuốc nổ. Sau
khi tra lắp bộc phá và bố trí xong, cả ba
người cầm cờ đuôi nheo đánh dấu 2 bài thuốc nổ, mỗi bài thuốc nổ gồm 20 quả,
mỗi quả 0,5 ki-lô-gam và mọi người ở tư thế sẵn sàng chờ tín hiệu hợp đồng để
phát hoả. Tin tưởng vào hai chiến sĩ nên Hợp không kiểm tra lại những quả bộc
phá mà hai chiến sĩ Hoà Và Thạch tra lắp, bố trí. Hợp đi quan sát xung quanh
điểm cao một vòng sau đó quay về chờ lệnh cho hai chiến sĩ giật bộc phá nổ.
- Mời anh Hợp hút thuốc với chúng em –
Hoà vừa nói, vừa đưa cho Hợp điếu thuốc lá.
Cả ba người ngồi quán hút thuốc lá đợi
tín hiệu hợp đồng giật bộc phá.
- Hôm nay đánh bộc phá tương đối nhiều
anh Hợp nhỉ. Mà bộc phá có trọng lượng lớn, quả to nữa chứ. Khi giật chắc nổ to
phải biết – Thạch và Hoà nói với Hợp như vậy.
- Ừ, bộc phá nổ trên cạn nghe to lắm,
có thể mới giống tiếng đạn pháo 105 ly bắn chứ- Hợp trả lời có vẻ mãn nguyện.
Chừng 5 phút sau, một phát tín hiệu đỏ
bay vút lên, thấy đúng với tín hiệu hiệp đồng. Hợp ra lệnh cho Hoà và Thạch
điểm hoả. Những quả bộc phá nổ vang, bụi đất mịt mù. Chắc rằng các chiến sĩ ở
trận địa nhìn rõ điểm nổ lắm đấy. Hợp nghĩ như vậy.
Mấy quả bộc phá cuối cùng Hoà và Thạch
có điểm hoả nhưng không nổ. Hợp không hiểu lý do gì, lúc này cũng là lúc hết
thời gian pháo bắn chuẩn bị.
-
Còn 3 quả chưa nổ phải không? Để gọn lại, cuối buổi tập sẽ hủy, hai đồng chí
khẩn trương di chuyển sang vị trí bãi thuốc nổ số 2 – Hợp nói với hai chiến sĩ.
Đến
bãi thuốc nổ số 2 tại Cao điểm 102, Hoà và thạc nối dây chờ lệnh phát hoả nổ
bộc phá. Từ phía trận địa bắn lại xuất hiện hai phát tín hiệu đỏ bắn lên, theo
hiệp đồng là giai đoạn pháo chuyển làm bắn về phía sau. Hợp ra lệnh cho Hoà và
Thạch điểm hoả, nhưng quả bộc phá lại nổ rền vang. Nhưng oái oăm thay, 2 quả
cuối cùng lại cũng nằm im không nhúc nhích. Kết thúc buổi luyện tập, Hoà và
Thạch thu dọn bộc phá thừa về, tất cả là 5 quả chưa nổ. Hợp nói với hai chiến
sĩ:
- Nhiệm vụ của chúng ta đến đây đã
hoàn thành, các đồng chí thu toàn bộ trang bị về đơn vị. Số bộc phá chưa nổ còn
nhiều, thôi chúng ta không huỷ nữa mà mang về trả vào kho đơn vị.
Hoà và Thạch nhanh nhẹn thu dọn trang
bị gọn gàng, sẵn sàng rút khỏi điểm cao. Nhưng hai người vẫn còn chần chừ và
đến gần Hợp nói:
- Mời anh hút thuốc! Số bộc phá còn
lại xin anh cho chúng em để chúng em làm bữa cá tươi anh nhé.
- Không được đâu, dùng không đúng
nguyên tắc nguy hiểm lắm, mang tất cả về nộp vào kho quân khí tiểu đoàn- Hợp
trả lời dứt khoát.
- Không việc gì đâu anh Hợp ạ! Chúng
em không làm ảnh hưởng đến anh đâu mà sợ.
- Không được! – Hợp kiên quyết trả
lời.
- Anh Hợp ơi, vật chất tiêu hao ấy mà,
đã ra ngoài kho để phục vụ cho huấn luyện coi như là sử dụng hết. Những lần tập
trước nếu thừa các anh cán bộ đều cho huỷ hết nhưng hủy mãi thì phí quá anh ạ.
Lần này bộc phá còn thừa nhiều anh cho chúng em, chúng em thử thả xuống suối
xem có được con cá nào không?- Hoà tha thiết đề nghị.
Thạch mạnh dạn thêm vào:
- Nếu được cá thế nào chúng em cũng để
dành anh Hợp con to nhất đấy.
Nghe hai chiến sĩ tán dương như vậy.
Hợp lưỡng lự và nói:
- Để mình hỏi ý kiến anh Quang - đại đội
trưởng xem đã.
- Thôi không phải hỏi nữa đâu anh Hợp
ạ! Khi đã giao nhiệm vụ cho anh thì anh phải được toàn quyền quyết định chứ.
Với lại anh Quang có biết là còn bộc phá chưa nổ đâu mà anh phải hỏi.
Hợp còn đang do dự thì hai chiến sĩ
phục vụ tấn công tiếp.
- Anh là cán bộ phụ trách quân xanh
thì mọi vật chất huấn luyện phục vụ tập bài anh phải được toàn quyền sử dụng
chứ, chúng em phục vụ nhiều các anh cán bộ trước chúng em biết mà. anh không
phải lo gì cả. Không bao giờ chúng em làm ảnh hưởng đến anh đâu.
Thế là Hợp miễn cưỡng đồng ý, mặc dù
trong lòng vẫn áy náy không yên.
Chiều hôm ấy về đơn vị, nhận được tin
bất ngờ làm Hợp choáng váng cả người. Hai chiến sĩ Hoà và Thạch bị bảo vệ của
một Công ty thủy sản gần nơi luyện của đơn vị Hợp bắt và giữ lại, gọi điện báo
cho đơn vị biết rằng hai quân nhân trên dùng thuốc nổ đánh cá vào vùng hồ nuôi
cá của họ. Nghiêm trọng hơn là một trong hai chiến sĩ đánh cá hiện đang phải
nằm cấp cứu tại bệnh xá của cơ quan thủy sản, đề nghị đơn vị Hợp đến nhận người
và đưa nạn nhân đi cấp cứu ở bệnh viện quân đội.
Chuyện vỡ lở ra, tất nhiên khuyết điểm
đối với Hợp không phải là nhẹ, những hình thức kỷ luật tiếp theo đối với hai
chiến sĩ là tất yếu. Còn đối với Hợp, một cái án kỷ luật chắc chắn là khó tránh
khỏi và Hợp đang cho sự phán xét của cấp trên.
Đó là kỷ niệm sâu sắc nhất trong đời
bộ đội của Hợp. Thấm thía biết bao, một khi
đã biết chiến sĩ của mình làm việc sai trái nhưng vẫn làm ngơ và đồng tình với
những cái sai ấy. Cũng là một bài học kinh nghiệm đối với Hợp: sự non nớt trong
chỉ huy, sự hữu khuynh, cả nể của người cán bộ đôi khi có hại biết chừng nào.
Nguyễn Văn
Lai
MỘ
TỔ
Truyện ngắn: Nguyễn Văn Lai
Mặt
trời vừa hé, ông Lục vác cuốc ra đồng đắp lại những đoạn bờ ruộng bị vỡ, giữ
nước cho mấy sào lúa đang thì con gái. Cả một buổi vất vả, nước ở ruộng mới
được giữ lại, nhìn lúa xanh mơn mởn, trông như bức thảm nhung, ông thấy lòng
mình ấm lại và tự hỏi chính mình, không hiểu vụ mùa năm nay lúa có bị chuột phá
không? Năm ngoái, năm kia, cùng thời điểm này, ruộng lúa của ông và mấy nhà anh
em trong dòng họ Đào ở thôn Liêm này đều xanh tốt phơi phới; nhưng cứ đến lúc
lúa làm đòng, gần đến ngày trổ bông, bỗng dưng chuột đồng đến phá phách dữ dội.
Từng cây lúa đang ngậm đòng bị cắn ngang thân gãy gập xuống mặt ruộng, làm ông
Lụa đứt từng khúc ruột. Đến vụ, thu hoạch mối sào chẳng đáng là bao, may mắn
nhà ông có tý nghề phụ, không thì có mà chết đói. Cả thôn, cả họ bảo nhau ra
đồng diệt chuột, nhưng mà chuột ở đâu lắm thế, đánh bẫy, hun khói... bắt được
cả đàn nhưng chuột vẫn cứ nhiều nhưng hình như chỉ nhằm vào ruộng của ông và
mấy nhà thuộc họ Đào cắn phá.
Lũ
chuột chết tiệt, sao chúng không sang ruộng nhà họ Trịnh mà cắn. Nhìn ruộng lúa xanh tốt của họ Trịnh bên cạnh, họ
Lụa lại nhẩm nói một mình.
Gần
trưa, ông lững thững vác cuốc về nhà, đi qua khu nghĩa địa của làng ông đến
ngôi mộ tổ họ Đào, cuốc mấy viên đất đắp thêm lên trên mộ, bất chợt ông nhìn
sang khu mộ họ Trịnh, vẫn thấy có nhiều chân nhang cháy dở, ông để ý những ngôi
mộ của từng dòng họ chẳng có gì đặc biệt cả, thường an táng theo các khu vực
khác nhau trong nghĩa địa. Hôm nay ngắm kỹ, ông thấy mộ tổ của họ Trịnh to hơn,
nằm gần chính giữa nghĩa địa. Trong ông chợt loé lên ý nghĩ, ông chặc lưỡi vác
cuốc lên vai rảo bước.
-
Hay là như thế, hay là như thế... vừa đi ông vừa lầm rầm như đi cầu kinh và về
đến nhà lúc nào chẳng rõ.
Bữa
cơm chiều hôm đó, ông ăn ít, trầm ngâm bên chén rượu trắng đã cạn, ông nói với
vợ.
-
Ngày mai, bà đi chợ mua một ít hoa tơi để tôi thắp hương tế mộ Tổ, xin các cụ
phù hộ cho năm nay được mùa, con cháu khoẻ mạnh, chứ cứ như mọi năm lúa thì bị
chuột cắn, chăn nuôi dịch bệnh chết gần hết, người trong họ cứ ốm đau liên
miên.
-
Đúng đấy ông ạ! Bà Lụa nói theo. Ông phải tế cụ Tổ để cụ phù hộ, độ trì cho con
cháu nhà họ Đào ta ăn nên, làm ra, chứ không cứ như mấy năm trước thì chết cả.
Thế thì bà nhớ mua thêm một chai rượu ngon và thịt
một con gà nữa nhé.
-
À mà này ông ! ông thử đi xem bói xem, mấy hôm nay ở chợ có một ông thầy bói
người Tầu xem bói giỏi lắm. Lâu lắm rồi mới thấy xuất hiện một ông thầy Tầu đấy,
ông cứ thử đi xem, xem sao.
-
Thế à ! Mai tôi đi chợ vào hỏi ông thầy xem thế nào? các ông thầy Tầu họ giỏi
lắm đấy. Họ có chữ thánh hiền nên họ biết tuốt, trên trời dưới đất họ thuộc như
lòng bàn tay. Nhưng mà sao bà không nói sớm.
Con
đường đến chợ không xa, vượt qua bờ đê. Ông rảo bước trên con đường mòn, hai
bên đường đầy cỏ bông may, chiếc quần nâu ta bám đầy hoa cỏ may chi chít. Còn sớm nhưng ông Lụa vẫn
bước nhanh chỉ sợ đến chợ đông người, không kịp thầy xem cho sớm nhất. Mặt trời
đỏ vừa chui ra khỏi những đám mây xám, chiếc những tia nắng hình rẻ quạt xuống
làng quê đầm ấm. Tiếng các bà, các chị đi chợ chuyện trò ríu rít, một vài người
quen gặp ông vẫn chào hỏi như thường ngày. Vào đến chợ, các hàng quán náo nhiệt
bán mua. Hôm nay chợ phiên có khác hàng hoá nhiều hơn mọi hôm, ông Lụa chen qua
mấy hàng xén, lách mình bước vội qua hai dãy hàng rau. Ôi chao, sao mà rau
nhiều thế, nào mùng tơi, rau muống, bí đỏ, bí xanh, cà xếp chật cả chỗ bước,
tiếng mời chào ông mua rau náo nhiệt. Đi qua hàng gạo, cả chợ chỉ lèo tèo mấy
thúng gạo quê, ông đến gần hàng bán thuốc lào, cạnh vài hàng bán thuốc Bắc và
nhìn thấy ông Thầy Tầu ngồi trong góc chợ. Đây đúng là ông bói mặc áo the vàng,
quần thâm, cặp kính đen, to che gần kín mặt, đầu đội chiếc khăn xếp còn nguyên
nếp gấp, trông ông nửa sang trọng, nửa nhà quê, rất dễ nhận vì ông ăn mặc không giống người ở
vùng này. Ông ngồi xếp bằng trên một mảnh chiếu cũ, phí trước trải ra một quyển
sách chữ nho, góc sườn tua tủa xác sơ. Chẳng hiểu mắt thầy còn sáng hay không
thấy gì mà tay thầy lần sờ từng trang, mắt hiêng hiếng ngó từng con chữ, có lúc
đưa sách sát mặt kính đen, hẳn là thấy đang đọc điều gì đó.
Ông Lụa vừa bước đến trước chỗ thầy ngồi, thì thầy đã lên tiếng.
-
Ôi nào! ông khách đấy à ! Ông khách xem về mồ mả phải không ? Động rồi, động rồi, mộ cụ Tổ dòng họp mà lại đặt ở đây
là không ổn rồi, khó làm ăn lắm!
Ông
Lụa ngạc nhiên đến thấy kinh vội vàng hỏi thầy:
-
Thầy bảo với ai đấy ạ !
-
Ô hay, tôi đang nói với ông khách chứ, mộ Tổ mà chẳng quan tâm gì, để mộ không
đúng hướng, đúng nơi đấy !
-
Xin thầy cho biết rõ hơn một tý được không ạ ! Thầy thánh thật !
-
Ối giời ơi ! Đấy đấy, cùng một nghĩa địa mà mộ Tổ dòng họ khác to hơn, táng đúng chính giữa nghĩa địa, thì bao nhiêu
lợi lộc về họ hết rồi còn gì !
-
Thế thì làm thế nào được hở thầy ? Ông Lụa hoang mang hỏi.
-
Còn làm thế nào nữa, phải tìm cách chứ ! Trừ phi mộ Tổ của ông khách táng đúng
"chỗ đấy" thì dòng tộc mới khá được. Đấy chính giữa nghĩa địa ấy. Đại
cát, đại cát: Thôi thôi, không xem cho ông khách nữa cho xin hai hào, hai hào
thôi !
Trả
tiền xong, ông Lụa ra về, vừa đi ông vừa lẩm nhẩm "đúng chỗ ấy, đúng chỗ
ấy, giữa nghĩa địa. Thôi chết rồi, chỉ có
như thế. Chỉ có như thế thì mới khá được, Đại cát, đạt cát đúng
rồi...". Ngay tối hôm đó một cuộc họp dòng họ Đào được tổ chức bí mật. Sau
khi ông Lụa đưa ra những lời nói của thầy bói Tầu phán và ý định của ông, nhiều
ý kiến bàn tán qua lại, cuối cùng đi đến thống nhất: Phải di chuyển mộ cụ Tổ
dòng họ Đào vào đúng chỗ đã định, đúng giữa nghĩa địa. Mà chính giữa nghĩa địa
lại đúng vào khu mộ Tổ của dòng họ Trịnh
nên không khí cuộc họp lắng xuống và một
quyết định đen tối được cả họ quyết định.
Hôm
ấy cuối tháng trời không có trăng, ánh sáng của những vì sao đêm hè đủ để soi
sáng cho họ làm việc ban đêm ngoài nghĩa địa làng Liêm. Trai tráng trong dòng
họ Đào được lực chọn trên trục người lực lưỡng, thạo công việc thổ, mộc; dưới
sự chỉ huy của ông Lụa, họ đã đào đường hầm xuyên xuống dưới mộ Tổ họ Trịnh,
rồi họ đăth mộ cụ Tổ họ đào xuống, lấp đất lại và xoá dấu vết, sau khi kết thúc
công việc, về đến nhà trời đã vừa sáng. Vì vậy, không thể biết phát hiện và
biết được rằng, phí dưới mộ cụ Tổ của họ Trịnh dẫu thường ngày có ra nghĩa địa
thăm viếng mộ Tổ cũng không thể phát hiện và biết rằng, phía trước mộ cụ Tổ của
họ Trịnh lại có mộ cụ Tổ của họ Đào.
Cuộc
sống của làng Liêm vẫn diễn ra bình thường như bao làng quê khác, có điều không
hiểu sao ngẫu nhiên hay linh ứng mà từ đó trở đi nhà ông Lục và dòng họ Đào làm
ăn nhất phát đạt, lúa tốt bời bời, ít bị chuột cắn phá, thu hoạch bằng hai bằng
ba những năm trước. Con cháu họ Đào đỗ đạt nhiều hơn, có người đỗ đến tú tài,
phó bảng, cử nhân... được bổ nhiệm làm đến chức thông phán, thầy đồ ở nhà
lại.v.v. Cũng từ đó dòng họ Trịnh cũng lụi dần, bao nhiêu lần đi thi thì các sĩ
tử của dòng họ Trịnh đều bị trượt, không một ai có tên trên bảng vàng, mặc dù
làng Liêm là vùng đất học. Một số cụ họ Trịnh làm quan ở phủ, ở huyện được nghỉ
hồi hưu, tai ác hơn có người nhà họ Trịnh đi buôn bán, làm ăn lại thua lỗ, tức
quá phát điên, phát khùng. Một vài cậu bỏ làng đi phu mỏ chẳng thấy tin tức gì,
có cậu còn bị chết khi hầm lò bị sụp.
Chính
những điều tai hại đó làm cho con cháu họ Trịnh suy nghĩ và họ so sánh với dòng
họ Đào ngày càng làm ăn phát đạt. Bí bách họ lại ra mộ Tổ tạ lễ, thắp hương
cúng bái, sửa sang phần mộ mong các cụ Tổ phù hộ, độ trì, trong quá trình đào
cỏ đắp mộ, họ phát hiện dấu vết của một đường hầm đào ngầm dưới đáy mộ tổ của
họ. Rồi ông thầy bói Tầu ngồi ở góc chợ lại được con cháu họ Trịnh tìm đến hỏi.
Ông Lộc, chi trưởng họ Trịnh được dòng họ cử đi gặp thầy bói, nghe thầy phán.
Cũng
vào một buổi sáng tốt ngày, đúng phiên chợ chính, ông Lộc quần áo chỉnh tề, cầm
ô vượt qua bờ đê đến chợ, nhanh chóng ông tìm gặp được thầy ngay, vừa đến nơi,
chưa kịp chào thầy, thầy đã nói luôn:
-
Quan khách à ! Lại động rồi, động rồi. Miệng nói, tay thầy lần sờ quyển sách
chữ nho đã nhàu nát. Sách dạy rõ đây này : Táng tùng, táng tùng. Đai tai, đại
tai !
-
Dạ thưa thầy ! Ông Lộc mặt tái đi, lập bập hỏi. Đai tai là thế nào hở thầy?
Thầy nói về cái gì thế !
-
Quan khách ơi ! Nói về mộ tổ của dòng họ quan khách đấy vớ ! mộ tổ bị động rồi,
làm thế nào mà lại có mộ của người khác táng trùng vào mộ tổ của dòng họ quan
khách thế ? Cho nên tại họa nhiều lắm, nhiều lắm !
-
Thế bây giờ phải làm thế nào hở thầy ?
-
Còn thế nào nữa! Phải tạ các cụ thôi. Phải táng lại mộ tổ, không thể táng trùng
như thế được. Dưới âm phủ đánh nhau thì dương gian phải chết người, hại của chứ
làm thế nào nữa. Không làm nhanh thì tuyệt tự đấy vớ ! Hai hào, hai hào, quan
khách cho xin hai hào !
Ông
Lộc lập cập trả tiền, chào thầy bói và hớt hải chạy về nhà, một cuộc họp họ
Trịnh lại được tổ chức ngay tối hôm đó tại nhà ông. Cũng có những ý kiến khác
nhau, nhưng hầu hết phẫn nộ và đi đến thống nhất chung.
-
Phải kiện, phải kiện thôi. Kiện cho bọn họ Đào trắng mắt ra. Ông Lộc nhờ cụ
Phán đã hồi hưu của dòng họ Trịnh thảo một lá đơn kiện họ Đào gửi lên tri huyện
Liên Thanh. Ít lâu sau có trát về đòi ông Lộc họ Trịnh và ông Lụa họ Đào lên
hầu kiện. Bên nguyên có lý của bên nguyên, bên bị có lý của bên bị, nghĩa trang
là nghĩa trang chung của làng, của Tổng, ai để phần mộ ông bà trước thì người
đó đúng. Cuối cùng quan xử bên ông Lụa thắng kiện vì mộ cụ tổ dòng họ Đào nằm
phía dưới mộ cụ tổ họ Trịnh. Như vậy là bên họ Đào đã an táng mộ cụ tổ của mình
trước mộ cụ tổ của dòng họ Trịnh, mà như vậy là họ Đào đúng và thắng kiện. Buộc
họ Trịnh phải di rời mộ cụ tổ của mình đi chỗ khác an táng. Mà nhà quan đã xử
thì chỉ có đúng và dân phải nghe theo.
Ông
Lộc cùng những người trong dòng họ trịnh rời cửa quan ra về trong lòng ấm ức mà
chẳng nói gì được. Họ thù dòng họ Đào ra mặt, từ đó mâu thuẫn giữa hai dùng họ
ngày càng được đẩy lên cao, tưởng như không bao giờ hết. Xung đột xảy ra liên
miên, mẻ đầu sứt tai là chuyện thường tình giữa hai dòng họ. Tình làng nghĩa
xóm chẳng còn, con trai, con gái thuộc hai dòng họ không được lấy nhau, người
họ Trịnh và người họ Đào không được tiếp xúc trong một điều kiện. Trong một
làng, một Tổng mà hai dòng họ đối xử với nhau như kẻ thù. Chẳng biết có phải do
chanh chấp an táng mộ tổ hay không mà cứ thời gian này dòng họ Đào phát đạt thì
dòng họ Trịnh Lụi bại, khi dòng họ Trịnh phát đạt thì dòng họ Đào lụi bại, cứ
như thế cuộc chiến có lúc ngấm ngầm, có lúc công khai dai dẳng không bao giờ
chấm dứt.
Năm
Ất Dậu, ai cũng nhớ mãi những ngày lận đận ấy, người chết đói, chết rét, chết
bệnh nhiều vô kể, cùng với nạn đói là dịch bệnh hoành hành. Làng Liêm cũng như
bao làng quê khác của Đồng bằng Bắc Bộ phải chịu cảnh chết vì đói, chết vì bệnh
dịch, dân số của làng Liêm hao hụt trông thấy. Dòng họ Đào và dòng họ Trịnh
không thoát khỏi guồng máy của cảnh ấy; nhất là những hộ nghèo còn bị thần chết
và ôn dịch bắt một lúc bốn, năm người. Người nòn còn sống sót thân thể chỉ còn
da bọc xương, quần áo tả tơi tóc tai bù xù, bước đi xiêu vẹo trông như cái xác
không hồn. Không ít mà phải bỏ làng tha phương cầu thực mà chẳng bao giờ thấy
trở lại làng Liêm nữa.
Thay
may, mùa thu năm ấy, cách mạng về nhân dân vùng đấu tranh, phá kho thóc của
Nhật, chia cho người nghèo. Người làng Liêm theo cách mạng rất đông ai nấy xung
phong tham gia khởi nghĩa, cướp chính quyền. Họ Đào và họ Trịnh còn sót người
nào, nhất là lớp thanh niên trai tráng đều nhất
tề đứng dậy cùng với Việt Minh lật đổ chính quyền phong kiến thối nát,
lập nên nhà nước công nông ở địa phương. Những năm tháng sau đó, thanh niên nam
nữ của hai dòng họ được giác ngộ cách mạng, đi theo cách mạng, đi theo Việt
Minh, xây dựng chính quyền nhân dân. Làng Liêm thay da đổi thịt, nạn đói, nạn
dốt và dịch bệnh dần dần được đẩy lùi. Không khí cách mạng dâng cao nhân dân
hưởng ứng đông đảo, tạm thời dường như mọi mâu thuẫn, xung đột trong làng được
lắng xuống. Mục tiêu đấu tranh của nhân dân nhằm vào bọn địa chủ phong kiến và
quan lại. Khi chính quyền đã về tay nhân dân, làng Liêm bước vào cuộc sống mới
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Mặc dù mối hiềm khích giữa
hai dòng họ tạm lắng xuống trong những ngày sục sôi cách mạng, bây giờ lại âm ỉ
nhem nhóm, nó không bùng nổ dữ dội như trước, đen tối, hãm hại nhau lại xuất
hiện ở cả hai dòng họ. Người ta ngầm so sánh dòng họ Đào có bao nhiêu người đi
thoát ly, tham gia cách mạng, dòng họ Trịnh có bao nhiên người giữ chức vụ
chính quyền thôn xã... những năm đầu của
cách mạng, đất nước lại bị thực dân pháp xâm lược, làng Liêm nằm trong vùng
địch tạm chiếm, những thủ tục lạc hậu năm xưa lại tiếp tục tái diễn, bệnh dịch
tả, thương hàn, đậu mùa thay nhau hoành hành, tàn phá nhà quê bé nhỏ và dịch
đau thương này. Vẫn chưa hết cảnh người chết vì giặc chết, vì đói, vì bệnh tật.
Nhận
lệnh ở trên người y sỹ Đào Văn Nhàn bí mật vượt qua các bốt giặc trở về làng thực hiện nhiệm vụ nặng nề của Đảng
và quân đội giao cho là vận động quần chúng tích cực tham gia cuộc kháng chiến
chống Pháp, chữa liệt, chữa đồng bào và du kích địa phương khi bị thương. Nhiệm vụ
nặng quá sức đối với một y sỹ mới được đào tạo gấp trong quân đội. Nhưng Đào
Văn Nhàn, bằng nghị lực và tuổi trẻ của mình cộng với tình yêu quê hương nên
anh đã trở về làng Liêm. Nhàn được huyện đội bố trí phối hợp đấu với đội du
kích của xã do Trịnh Bá Nhung làm đội trưởng. Gặp nhau, hai cặp mắt bất chợt
loé lên những tia giận giữ của lòng hận thù năm xưa. Đào Văn Nhàn chính là con
trai của Đào Văn Lụa chi trưởng họ Đào làng Liêm; Trịnh Bá Nhung là con trai
độc nhất của ông Trịnh Bá Lộc chi trưởng họ Trịnh cùng làng. Tuy nhiên sau
những giây phú ngỡ ngàng, mất bình tĩnh ấy, Đào Văn Nhàn xác định lại vị trí
của mình là một chiến sĩ quân đội tăng cường cho địa phương, anh điềm đạm, chủ
động tiến đến bắt tay trân trọng Trịnh Bá Nhung. Mặc dù không mốn nhưng Trịnh
Bá Nhung vẫn cảm nhận được cái bắt tay hoà bình thân thiện. Tuy mỗi người một
suy nghĩ khác nhau nhưng có một điểm chung là phải hợp tác hoàn thành tốt nhiệm
vụ cách mạng giao cho. Vốn là những quần chúng tốt được cách mạng giác ngộ, một
người đi theo bộ đội được học hành nghề y, được bồi dưỡng ý thức chính trị và
trở thành Đảng viên, trở về làng đánh giặc giải phóng quê hương. Một người ở
quê, hăng hái tham gia chiến đấu phá tề, diệt đế quốc được Đảng và nhân dân tin
cậy giao cho làm đội trưởng đội du kích của xã và cũng trở thành Đảng viên.
Làng Liêm là một làng nằm trong vùng địch tạm chiếm, có tề, nguỵ nhiều. Nhàn và
Nhung cùng sinh hoạt trong một chi bộ xã ; tuy có những mâu thuẫn truyền đời giữa
hai dòng họ với nhau nhưng có một điểm chung là lòng yêu nước, yêu quê hương,
căm thù giặc sâu sắc nên họ có suy nghĩ chung là chỉ có đoàn kết lại cùng nhân
dân sát cánh bên nhau lập làng kháng chiến thì mới giải phóng được quê hương
khỏi ách áp bức của giặc Pháp mà thôi.
Chiến sỹ quân y Đào Văn Nhàn và đội
trưởng đội du kích Trịnh Bá Nhung đều là những thành phần nòng cốt của Đảng và
nhân dân địa phương. Bộ đội Nhàn là đặc tình của Tỉnh đội. Đội trưởng du kích
Nhung là chỗ dựa của cả đội du kích xã và cả nhân dân trong chiến đấu phá tề
diệt ác. Họ đã phối hợp hoạt động, tham gia nhiều trận đánh thắng lợi, lập
nhiều chiến công.
Đêm ấy, gần 3 giờ sáng, đội du kích
của xxa do Trịnh Bá Nhung phụ trách dưới sự chỉ huy của xã đội trưởng và phối
hợp chiến đấu của bộ đội Nhàn, tiến công đồn giặc Pháp ở đầu làng Liêm nhằm
tiêu diệt chúng tạo điều kiện cho bà con nhân dân đứng lên phá tề. Đêm cuối
tháng, trời tối đen như mực, thỉnh thoảng tiếng gà gáy thưa thớt trong làng
vọng đến nghe buồn não ruột. Đội du kích áp sát đồn giặc, bất ngờ tiến công khi
nhận được ám hiệu của nội ứng. Trận đánh tưởng như thuận lợi nhưng càng ngày
càng diễn ra ác liệt, khi du kích ta mở cửa đồn xông vào gặp địch đánh trả dữ
dội, hoả lực của chúng bắn ra mãnh liệt, các hướng tiến công đều chặn lại,
không thể phát triển được. Xã đội trưởng
đành phải cho du kích rút lui. Trận đánh không thành công do khâu nắm địch
không chắc, ban đầu đồn ấy chỉ có một tiểu đội trung đội (thiếu) do một tên
quan hai Pháp chỉ huy. Sau gần 30 phút chiến đấu, du kích phải trở ra cánh đồng
Bồ Vai, vượt qua nghĩa địa để vượt sông về căn cứ tập kết. Khi du kích rút đến
nghĩa địa của làng thì hoả lực địch bắn chặn dữ dội, moóc - chê của chúng bắn
chặn đường rút của du kích, lính từ trong đồn nống ra truy kích. Xã đội trưởng,
bộ đội Nhàn và đội trưởng du kích Nhung đánh cản hậu để du kích vượt sông. Từng
phát súng trường của đội du kích bắn trả
đĩnh đạc nhưng bọn giặc vẫn liều mạng truy đuổi. Một quả moóc - chê nổ gần,
Trịnh bá Nhung bị mảnh đạn găm trúng đùi và ngực không thể rút được, máu của
anh loang trên nghĩa địa làng. Y sĩ Nhàn nhanh chóng đưa thương binh vượt sông,
nếu không thực hiện phương án này thì cả tổ khó mà thoát được địch truy kích,
làm thế nào để giảm nhẹ thương vong, chỉ có cách duy nhất là phải nhận hy sinh
về mình để đồng đội rút an toàn. Sau một hồi giằng co, xã đội trưởng nhận trách
nhiệm đưa thương binh vượt sông về căn cứ. Nhàn ở lại với hai quả lựu đạn cán gỗ Việt Nam, một khẩu Tiểu liên
Sten bằng động tác nhanh nhẹn của người chiến sỹ quân đội, anh lăn nhiều vòng
về phía cánh đồng Bồ Vai, nổ súng nhả từng loạt Tiểu liên về phía địch. Phát
hiện hoả lực ta, địch tưởng du kích rút theo hướng đó tập trung lực lượng bắn
chặn và truy kích, Nhàn lợi dụng từng bờ
ruộng anh bắn từng loạt đạn ngắn về phía địch, sau đó rút dần lên nghĩa địa,
Nhàn có điều kiện ẩn nấp bắn trả, nhưng vòng vây của địch ngày càng khép lại,
chỉ đến khi hết đạn và bị thương, anh mới rơi vào tay giặc. Bị chúng bắt tra
tấn giã man, nhiều lần chết đi sống lại. Chính những lúc sống, chế kề cận anh
mới thấy tình làng nghĩa xóm cao qúy biết bao. May thay nhờ nội ứng Đào Văn
Nhàn đã trốn thoát khỏi đồn giặc, trở về
với đồng chí, nhân dân. Trong những ngày nằm ở căn cứ du kích, Nhàn đã tự chứa
vết thương cho Trịnh Bá Nhung, vết thương của nhung rất nặng, có lúc tưởng như
không qua khỏi, nhưng nhờ lòng nhiệt tình, trách nhịêm của y sĩ Nhàn và đồng
đội Nhung đã thoát khỏi lưỡi hái của thần chết, dần dần bình phục. Có lúc hai
người chung nhau một bát cháo cá, cháo ốc, hương vị của làng quê. Những ngày
gian khổ đó, Nhàn và Nhung mới thấy hết được tình cảm chân thật của mỗi người,
vừa tình đồng chí, vừa trách nhiệm với nhau. Bao nhiêu hiềm khích, hận thù của
họ tự nhiên tan biến đi. Vả lại các cụ Lụa, cụ Lộc cũng đã qua đời mấy năm
trước, được chứng kiến những cảnh này chắc hẳn các cụ cũng sẽ thay đổi cách ứng
sử, đối lại tình đoàn kết vốn có trong cùng một làng quê xưa.
Tôi
về thăm làng Liêm theo lời mời của Đào Thanh - bạn cùng đơn vị cũ, ã phục viên và được nghe kể câu chuyện trên
trong bữa rượu mừng hội ngộ. Nâng chén rượu lên nhưng môi không nhấp, Đào Thanh
- Hậu Nhuệ của dòng họ Đào kế tiếp:
-
Chuyện tôi kể cho anh chính bố tôi kể lại truyền đời cho con cháu đấy. Đó là sự
thật, một sự thật phũ phàng, cay đắng tưởng trừng như đã chôn vùi theo quá khứ,
nào ngờ nay lại đang manh nha hình thành nên những mâu thuẫn mới, một cuộc
chiến tranh mới.
-
Như vậy thật sao ? Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
-
Ông cứ cơm rượu xong xuôi, nghỉ ngơi, chiều tôi sẽ đưa ông đi dạo thăm làng
Liêm của tôi, tiện thể thăm lại nghĩa địa của làng luôn. Chính ở nghĩa địa này,
Bác ruột của tôi là Đào Văn Nhàn đã chiến đấu anh dũng, máu của bác đã thắm đỏ
mảnh đất này để giữ làng xóm quê hương.
Đúng
hẹn chiều hôm đó, Đào Thanh dẫn tôi cuốc bộ lững thững dọc theo con đường làng
đất min ngắm cảnh làng quê. Làng Liêm nay mái rạ không còn, thay vào đó là
những ngôi nhà ngói đỏ, nhà mái bằng vuông vắn, thấp thoáng một vài ngôi nhà
hai, ba tầng nổi trội, xen kẽ những căn nhà cấp bốn rêu xanh. Vốn là một làng
quê vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhưng tuyệt nhiên tôi không còn thấy bóng dáng bờ tre, hàng cau như trước nữa
chỉ thấy nhà san sát nhấp nhô, ngõ nhỏ từng nhà lát gạch hoặc đổ bê tông sạch
sẽ, con đường được bê tông hoá. Đào Thanh dẫn tôi đến nghĩa địa của làng Liêm.
Chao ôi ! sao mà sặc sỡ sắc màu của
"kiến trúc nhà mồ" kiểu mới. Những ngôi mộ chưa được xếp thành
hàng ngay ngắn mà được xếp thành một khu riêng biệt của từng dòng họ. Có
khu mộ xây to như xây nhà ở. Có cổng vào
cột tròn, cân đối chữ nho. Hầu như ngôi mộ nào cũng có chữ phúc gắn liền với mộ
chí. Có những khu mộ đang xây dựng dở, giàn giáo mắc lỉnh kỉnh, cao ngất
ngưởng, mới nhìn cứ tưởng một công trình đang xây. Đào Thanh chỉ khu mộ to được
trang trí cầu kỳ gần chính nghĩa địa và nói.
-
Đấy là khu mộ tổ họ Trịnh đấy ông ạ ! Họ xây to chưa. Toàn tiền đóng góp của
con cháu của học Trịnh đấy ! Riêng cổng chào
và ngôi mộ cụ tổ tiền xây dựng hơn 80 triệu đồng đấy ! Do tài trợ của anh họ Trịnh Việt
kiều ở bên Bắc Mỹ gửi về năm ngoái, năm kia, ở làng chỉ đóng thêm công thợ mà
thôi.
Ngắm
nhìn khu mộ, tôi chỉ còn biết tấm tắc khen độ tinh sảo của các tay thợ làng
Liêm như thế, quả là đẹp thật, có những đường lượn rồng phượng cầu kỳ, còn hơn
cả xây nhà cho người sống nữa.
-
Ông biết không ? khu mộ đang xẩy giở kia là mộ họ Đào tôi đấy! Phương án và
thiết kế xẽ xây to và cao hơn mộ của họ Trịnh, mới xây được già nửa đã dừng lại
vì thiếu kinh phí, hiện đang phải kêu
gọi sự đóng góp của con cháu họ Đào. Mỗi xuất đinh ở quê là một triệu đồng, nếu
là con gái thì tuỳ tâm, nhưng vẫn chưa đủ. Hiện nay cả họ đang vận động một số
con em, dâu rể đi xuất khẩu lao động ở Đông
Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản... gửi đô về mới có tiền tiếp tục xây.
Nghe Đào Thanh nói vậy mà người tôi thấy
ớn lạnh, gai ốc nổi cả lên.
Tôi thầm nghĩ một cuộc chiến xây mộ đang
âm ỉ, sôi động và bùng phát ở làng Liêm và liệu có còn làng quê nào như thế
không.
Tôi chợt liên tưởng đến những ngày đứt
bữa rau cháo cầm hơi của một thời và của những ngày ngày bán mặt cho đất, bán
lưng cho trời.
TÌNH NGHĨA SƠN TÂY
Đối với bất kỳ một cán bộ, giáo viên,
học viên của Trường Sĩ quan Lục quân 1 không thể quên được hai địa danh luôn
gắn với sự ra đời, xây dựng và trưởng thành của nhà trường, đó là Tuyên Quang
và Hà Tây. Ở Khuối Kịch (Sơn Dương - Tuyên Quang) nơi sinh ra Trường quân chính
kháng Nhật - Tiền thân của Trường Sĩ quan Lục quân 1 ngày nay, còn Sơn Tây (Hà
Tây), nơi nuôi dưỡng xây dựng, phát triển và trưởng thành của Nhà trường trong
gần 60 năm qua.
Tuyên
quang là mảnh đất chiến khu cách mạng, có cây đa Tân trào, mái đình Hồng Thái,
lán Nà Dừa... Nơi ra đời những quyết định của Đảng, nơi khởi nguồn chiến thắng của cách mạng Việt Nam. Ở
mảnh đất thiêng liên đó, Trường Sĩ quan Lục quân 1 đã ra đời, tiến hành đào tạo
những khó cán bộ quân sự - chính trị đầu tiên cho Quân đội nhân dân Việt Nam,
đó là niềm vinh dự tự hào to lớn mà các thế hệ Lục quân luôn trân trọng và ghi
nhớ trong tâm khảm của mình.
Ở Hà Tây, mảnh đất xứ Đoài với nhiều
huyền thoại của lịch sử và hiện tại nơi đây, có thiên nhiên hùng vĩ núi Tản, sông
Đà, dòng Nhuệ Giang vắt ngang bồi đắp những phù xa, mang về nhiều mùa màng no
ấm. Con người Hà Tây thông minh, dũng cảm, đất Hà Tây giường như được tích tụ bởi khí thiêng liêng sông núi,
nên đã sinh ra những trai tài gái đảm "Những cô gái suối Hai, những anh
chàng Cầu Giẽ", những con người nghị lực và kiên cường trong chiến đấu
chống kẻ thù, thông minh sáng tạo trong lao động sản xuất; trồng lúa ngô thì
lúa ngô nảy hạt, làm thợ thủ công thì nổi tiếng cả một vùng và khắp đất nước.
Vinh dự tự hào đối với Trường Sĩ quan Lục quân 1, với gần 60 năm ra đời, thì có
đến hơn 40 năm đóng quân trên đất Hà Tây giàu huyền thoại này, từ khi còn sơ
khai, trứng nước Nhà trường đã chọn Sơn Tây làm nơi đóng quân để huấn luyện
những khoá cán bộ "Võ bị Trần Quốc Tuấn " đầu tiên, góp phần tạo ra
đội ngũ cán bộ quân sự ưu tú cho Đảng và quân đội, để bảo vệ chính quyền nhân
dân còn non trẻ lúc bấy giờ. Nhân dân Sơn Tây yêu quý, đùm bọc các anh "Vệ
túm", "Vệ trọc", giúp đỡ bộ đội Lục quân rất nhiều cả về vật
chất lẫn tinh thần. Tuy quân và dân lúc ấy rất nghèo, thậm chí có lúc còn đói
khổ nhưng đồng bào vẫn yêu thương bộ đội như con; Các mẹ, các chị, các em gái
Sơn Tây giành cho các chú học viên Lục quân những củ sắn lùi thơm phức, những
bắp ngô non ven bãi sông Hồng mới bẻ mang hương vị ngọt ngào. Chính ở nơi đây,
khách sạn SaLê năm xưa (bến xe ô tô Sơn Tây ngày nay), Khoá 1 Võ bị Trần Quốc
Tuấn được khai mạc, Nhà trường đã cùng với nhân dân Sơn Tây vui mừng, phấn khởi
được đón Bác Hồ về thăm và trao lá cờ truyền thống "Trung với nước,
hiếu với dân" cho Nhà trường.
Kháng chiến bùng nổ, bộ đội Lục quân tạm
biệt quê hương Sơn Tây trở lại chiến khu Việt bắc và sang nước bạn đào tạo.
Đồng bào Sơn Tây bồi hồi tiễn đưa, bịn rịn chia tay, mong có ngày bộ đội Lục
quân trở lại xứ Đoài. Những tấm áo trấn thủ từ tay các mẹ, các chị trao cho bộ
đội Lục quân, lại bước theo bước chân các anh lên đường đi đến các nẻo đường
của Tổ Quốc, làm ấm lòng bao chiến sĩ Lục quân những đêm đông giá rét nơi biên
thuỳ, và tiếp thêm sức mạnh, nguồn động viên quý báu để người chiến sĩ Lục quân
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đào tạo cán bộ của mình. Hoà bình lập lại, bộ đội
Lục quân trở về Sơn Tây, trên mảnh đất Công trường 50 đầy sỏi đá và nắng gió.
Đồng bào Sơn tây lại cùng với bộ đội Lục quân san sẻ những gian khổ trong lao
động, huấn luyện và xây dựng Nhà trường. Có những lúc nhạt muối, đói cơm nhưng
tình nghĩa quân dân cá nước thì không bao giờ phai nhạt. Cũng có khi nhân dân
gặp hiểm nghèo, lũ lụt kéo về, phản động phá hoại, máy bay quân thù bắn phá, bộ
đội Lục quân lại giúp dân trừ gian, cứu đói, hộ đê, chống lũ lụt, giúp đồng bào
sơ tán khỏi bom đạn của giặc Mỹ.... ơn nghĩa đó đồng bào và bộ đội đều ghi.
Đất nước mở cửa, luồng gió đổi mới thổi
đến từng nhà, nền kinh tế của cả nước nói chung và của Sơn Tây nói riêng có
bước phát triển vượt bậc, đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc, làng xóm thay đổi
da thịt. Bộ đội Lục quân lại cùng với chính quyền nhân dân Sơn Tây chung tay
xây dựng quê hương giàu đẹp, phát triển kinh tế vững mạnh, xây dựng địa bàn
đóng quân an toàn, an ninh trật tự xã hội. Công cuộc xoá đói giảm nghèo được
các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương chăm lo, thúc đẩy. Bộ đội Lục quân
lại cùng nhân dân đóng góp giúp đỡ những gia đình chính sách, những người có
hoàn cảnh khó khăn. Bộ đội tặng quà tặng sổ tiết kiệm, xây nhà tình nghĩa, đóng
góp quỹ từ thiện , quỹ bảo trợ trẻ em, khám chữa bệnh miễn phí cho nhân dân
trên địa bàn đóng quân. Nhân dân địa phương vẫn yêu quý nhân dân như xưa, đồng
bào tạo điều kiện mọi mặt cho bộ đội Lục
Quân học tập, huấn luyện, khi bộ đội luyện tập gần dân, các gia đình cho bộ đội
mượn nhà để ở, cho mượn vườn để luyện tập chiến thuật.
Tuy nhiên đâu đó vẫn còn một số ít phần
tử xấu lợi dụng mặt trái cơ chế thị trường để làm trái với những quy định của
pháp luật , gây ảnh hưởng đến mối quan
hệ và tình cảm đoàn kết quân dân, tạo nên những khó khăn tạm thời cho bộ đội và
nhân dân địa phương. Một số ít kích động, lôi những người bất mãn lấn chiếm đất
Quốc phòng, xây dựng nhà trái phép trên khu vực thao trường luyện tập của bộ
đội, thậm chí còn chống đối, đánh trả người thi hành công vụ.
Không đồng tình
trước số phần tử có thái độ quá khích, với quan điểm đoàn kết quân dân, xây
dựng địa bàn đóng quân vững mạnh, trật tự an toàn xã hội, bộ đội Lục quân đã
phối hợp với Đảng uỷ, chính quyền và công an các địa phương từng bước giải
quyết, tháo giỡ những khó khăn phức tạp đó. UBND thị xã, công an Sơn Tây, Ba Vì
đã phối hợp với bộ đội Lục quân dựa vào nhân dân kịp thời tuyên truyền đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho nhân dân hiểu
rõ và không nghe theo lời bọ xấu xúi dục. Đối với những đối tượng chưa tiến bộ,
thì kiên trì giáo dục, thuyết phục, hiệu quả như vậy, bộ đội Lục quân đã góp phần cùng với cấp uỷ Đảng, chính
quyền và nhân dân Sơn Tây xây dựng mối đoàn kết gắn bó, giữ vững an ninh, trật
tự an toàn xã hội.
Chưa hết, bộ đội Lục quân còn tích cực tổ chức giao lưu kết nghĩa giữa các
đơn vị cơ sở Nhà trường với các địa phương khu vực đóng quân, tạo nên tình cảm
vốn đã gắn bó keo sơn lại càng keo sơn gắn bó. Các chi đoàn, Liên chi đoàn và
đoàn cơ sở trong Nhà trường và địa phương thường xuyên tổ chức các hoạt động
giao lưu văn hoá văn nghệ, thi đấu thể thao, lao động giúp đỡ các gia đình
chính sách... Vào dịp hè tổ chức cho các cháu thiếu nhi ở những thôn xung quanh
Nhà trường hoạt động hè sôi nổi bổ ích. Có thời điểm đội văn nghệ xung kích và
đội điện ảnh lưu động của Nhà trường thường xuyên đi về các địa phương, vùng
sâu, vùng xa trong tỉnh địa bàn hoạt động của Nhà trường biểu diễn văn ghệ,
chiếu phim màn ảnh rộng phục vụ bà con nhân dân... Những việc làm trên được
Đảng, chính quyền và nhân dân địa phương ghi nhận. Đáp lại những tình cảm đó,
nhân dân lại tạo điều kiện giúp đỡ bộ đội Lục quân trong huấn luyện, công tác
và đời sống. Đặc biệt, khi phát hiện những vấn đề vướng mắc làm tồn hại đến mối
quan hệ đoàn kết quân nhân, cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương đều phối hợp
với các cơ quan chức năng của Nhà trường trao đổi, bàn bạc tìm biện pháp tháo
gỡ. Cả bộ đội và nhân dân đều hiểu rằng chỉ xây dựng tốt mối đoàn kết quân dân,
giải quyết tận gốc những vấn đề nảy sinh giữa bộ đội và nhân thì mới góp phần
xây dựng địa phương vững mạnh toàn diện, đẩy mạnh và phát triển tình đoàn kết
mối quan hệ gắn bó, máu thịt giữa Nhà trường với nhân dân các địa phương trong
khu vực đóng quân.
Ngày nay mỗi một cán bộ, giáo viên, học
viên, chiến sỹ Nhà trường càng nhận thức sâu sắc và thấu hiểu được nghĩa tình
sâu nặng của nhân dân Sơn Tây nói chung và đồng bào các xã trong khu vực đóng
quân nói riêng đối với Nhà trường. Từ đó cố gắng hết sức mình vì tình đoàn kết
gắn bó giữa bộ đội Lục quân với nhân dân Sơn Tây, đây vừa là trách nhiệm, tình
cảm của mỗi người lính Lục quân góp phần xây dựng địa phương giàu đẹp.
Nguyễn
Văn Lai
Hòa Bình, ngày ấy tôi lên
Chiếc xe U oát vượt dốc Kẽm đưa chúng
tôi đến thị xã Hòa Bình một thị xã miền núi nhỏ bé và đầy thơ mộng vừa bừng
tỉnh dậy sau buổi sáng mùa đông xương mù dày đặc. Xe đến ngã ba, bên phải là
đường lên thủy điện sông Đà, bên trái là đường đi Sơn La, chợ Bờ, suối Bút, nơi
chúng tôi muốn đến là xã Bình Thanh, ở đó có xóm Gióng, có mỏ đá, có tượng Đài Cù Chính Lan đánh xe tăng
giặc. Bằng một đường cua nhỏ, chiếc xe
nhẹ nhàng rẽ trái, vượt qua quãng đường không dài và dừng lại trước cổng Bộ chỉ
huy Quân sự Tỉnh. Sau khi xuất trình giấy tờ chúng tôi vào ban tuyên huấn gặp
nhà thơ, Nhà phê bình văn học Nguyễn Anh Nội. Người bạn đồng môn, đường học,
đường trường năm xưa, nay tóc đã điểm bạc, dáng người thiêng đậm vẫn cặm cụi
bên giàn máy vi tính, lạch cạch trình xuất những vần thơ ca ngợi đất nước, gợi
ca quê hương của Lò Cao Nhung, Nguyễn Tấn Vật. Sau cái bắt tay rất chặt Nguyễn
Anh Nông không ngạc nhiên khi gặp lại những người quen thân cũ. Tôi và Đỗ Xuân
Đô cán bộ Ban tuyên huấn TSQLQ2 và anh Phạm Hồng Sơn - Trưởng khoa bắn súng của
nhà trường những con người làm thơ, viết báo, viết nach không nhiều, song tình
yêu thơ, yêu nhạc, yêu người thì lại vượt quá cả thời gian. Cái cảm giác ban
đầu khi đến với Hòa Bình, đến với người bạn làm thơ đó là tình cảm ấm cúng thân
tình như thời học viên cùng chung điếu thuốc lá cuộn, ấm nước chè hâm trong bi
đông và những buổi làm thơ, đọc thơ dưới gốc phượng không đèn mà vần trăng vẫn
ẩn mình sau những tầng mây đặc. Thế mà ! thời gian trôi nhanh như dòng nước Đà
Giang tuôn chảy. 20 năm có lẽ đến hôm nay, tóc bạc đã trắng trên đầu, tóc mình
rụng mất một phần ba nhưng cái quý nhất thì vẫn còn ở lại đó là tình yêu thơ,
tình đồng chí, óc sáng tạo và tinh thần lao động nghệ thuật không những vẫn
tiềm ẩn mà đã thành hiện thực. Những bài thơ của bạn đã thăng hoa, những áng
văn phê bình của mỗi đồng chí đã chắp cánh thêm cho những tập thơ và không quên
nhặt những hạt sạn còn vương vấn lại. Bạn
đã trở thành nhà thơ, thành hội viên hội văn nghệ tỉnh nhà. Mối quan hệ đã rộng
hơn, tiếp xúc nhiều với những cây đa cây đề, trong làng báo, làng thơ học được
ở những người có tên tuổi, sự tinh túy và những câu thơ sống mãi với thời gian,
được các vị trưởng lão trong làng văn ưu ái khen che. Đã có những mùa thu hoạch
bội thu, ba bốn tập thơ in ở trung ương và trong tỉnh có cả những bài phê bình
động đến cả ...... vị khá “nặng cân”. Chao ôi ! mới đó mà ngày nào bạn vẫn lo
cho tôi tuy cần cù nhưng thiếu tính kiên trì, biết thưởng thức thơ nhạc, biết
yêu những tác giả, cá nhân, biết buồn khi gặp nhân vật, gặp cảnh không may thế
mà hôm nay gặp lại nhau tay bắt mặt mừng, chúng ta tuy ít tài nhưng vẫn yêu thơ
và đã là “con nhà tuyên huấn” cũng tập tọe dăm ba câu thơ, vài trăm bài báo,
cũng nói được những lời các văn nghệ sỹ không chê, cũng hát sâu xa những làn điều
chèo, đội câu quan họ, biết đọc những dòng tùy bút lưu danh, những đoạn thơ
người đời cất trong túi áo.
Rồi
chúng ta nâng chén rượu ân tình, chuẩn bị đến Bình Thanh, Anh Phạm Hồng Sơn hơn
40 năm trước anh ở chốn này và đầy ắp những kỷ niệm về người và đất, Bình Thanh
ơi hai tiếng thân thương, mái nhà sàn năm xưa nơi đây có còn vương khói thuốc,
chiếc xe đã đưa chúng tôi đến nơi cần đến. Anh Nguyễn Thế Dân phó chủ chủ nhiệm
Chính trị Bộ chỉ huy quân sự tỉnh cho Nguyễn Anh Nông đưa đoàn chúng tôi về với
Bình Thanh - nơi ấy tìm lại cội nguồn, tìm lại ngôi nhà xưa nơi có bếp lửa hồng
đun nồi cơm dẻo, nướng những củ khoai sắp cháy vẫn bốc mùi thơ. Xóm Giang năm
xưa mái nhà sàn thấp thoáng, nay đã thành làng du lịch tập nập khách vào ra.
Anh Sơn quên sao được những buổi chiều bộ đội chuẩn bị cho đêm trinh sát luồn
sâu, mấy cô sơn nữ đứng đầu sàn nhoẻn cười thích thú. Rồi những tối không trăng
hành quân về thị xã tập bài phục kích bắt tù binh, làm ngơ ngác mấy nhà dân gần
đó. Rét run người buổi sáng vẫn tắm nước suối đầu thôn, ở đó lòng dân quý bộ
đội như con, cơm nắm, muối vừng gói cho cất vào vỏ bi đông khi hành quân diễn
tập, ai đó còn dặn dò như mẹ dặn con trước lúc đi xa. Mía tím bố già vẫn đẵn
cho làm gậy, vài ba em nhỏ hớn hở bé lá ngụy trang, mong muốn các anh đi dữ ít,
nhiều lành. Hôm nay, trở lại bình Thanh, con đường cũ vẫn còn, mái nhà tranh ít
thấy, gió mùa đông khe khẽ thổi buốt giá, mấy mẹ già cấy lúa dưới ruộng bậc
thang. Cây bưởi rìa đường vàng ruộm những chùm quả chín, đợi chờ bàn tay thiếu
nữ chẩy chợ mùa xuân. Một chị trung niên đứng đầu sàn chải tóc, vui vẻ trả lời
khi anh Sơn hỏi đường đến cuối thôn. Đến đó anh tìm thêm những kỷ niệm nơi anh
đã từng khổ luyện, bãi tập thực hành, sân
chơi thể dục... Nơi anh ở là một nhà người Mường trong xóm, đời sống lúc đó tuy
nghèo nhưng tình cảm chứa chan. Anh tìm lại nhưng gia đình chuyển đi đâu không
rõ, đành gác lại những kỷ niệm về một làng quê miền núi.
Xe
đưa Nguyễn Anh Nông dẫn chúng tôi lên tượng đài người anh hùng đánh xe tăng
địch. Cù Chính Lan dáng anh vẫn còn trên tháp pháo, tay ấn lựu đạn vào xe, mắt
cháy căm thù. Con đường số 6 năm xưa ghi chiến công anh hùng bất tử đó vẫn cứ
quanh co, uốn lượn, nơi đây, được chọn để phục kích xe tăng địch và đây chính
là cửa tử đối với quân xâm lược đến đất Hòa Bình. Ngày nay, đã có một con đường
chiến lược khác to hơn, bẳng phẳng hơn nối liền
Hòa Bình với Sơn La, Lai Châu. Nhưng ở đây tượng đài anh hùng Cù Chính
Lan thì vẫn vĩnh hằng. Cù Văn Mấu tên thật của anh, và anh sinh ra trên quê
hương Quỳnh Lưu, Nghệ An Miền Trung nắng lửa, nhưng anh lại hy sinh thần mình
cho đất Hòa Bình. 16 ngày sau anh lại cùng đồng đội đánh trận ở Lâm Sơn, Lương
Sơn và hy sinh ở đó. Đất Hòa Bình đã nhận anh về với mẹ. Tổ quốc ghi công anh
và ghi công đất Hòa Bình.
Chiếc
xe tăng Pháp HápTơRắc số hiệu 528-E5498 đã không còn ở nơi nó bị diệt nữa, nhà
bảo tàng của tỉnh đã mang xác xe về lưu giữ cái “chết” của nó cho muôn đời sau.
Nó là lịch sử, là nhân chứng, là vật chứng của tinh thần anh dũng đất Hòa Bình
và của toàn dân. Ta cứ nghĩ, nếu không có Cù Chính Lan và những người anh hùng
khác thì công trình thủy điện mang tầm thế kỷ kia liệu có được mọc lên không?
Rồi có một thị xã trẻ trung mang sức bật mùa xuân và một tiềm năng như vùng
vàng trắng này hay không? điều đó là có thể. Thời cầm súng đã đi qua, hôm nay
không thể không có những công trình mang dấu ấn và lợi ích dân sinh. Hòa Bình
ơi ! chúng tôi xin cám ơn người, xin cám ơn những gì người đã giữ lại cho đất
nước và cho các thế hệ tiếp sau. Chuyện chiếc tàu chiến Pháp nằm dưới dòng Đà
Giang 50 năm mới được thấy mặt trời mà Nguyễn Anh Nông kể lại cũng là minh
chứng cho điều ấy. Hòa Bình, nơi giàu chiến công lịch sử và là nơi đóng góp,
giữ gìn, tôn vinh lịch sử. Chỉ tính giêng trong cuộc kháng chiến thống thực dân
Pháp, Hòa Bình đã đóng góp 955 con em các dân tộc tham gia Quân đội, 1.169.000
lượt người đi Thanh niên xung phong, đi dân công phục vụ kháng chiến. Nhân dân
trong tỉnh đã ủng hộ 876 con trâu, bò, gần 600 tấn lương thực, hơn 41 tấn thực
phẩm cho Kháng chiến. Quân dân Hòa Bình đã chiến đấu và phối hợp chiến đấu 1780
trận đánh lớn, nhỏ. Diệt và bắt sống 3406 tên địch, phá hủy 18 trọng pháo và vũ
khí hạng nặng khác. Bắn cháy, bắn hỏng 16 ca nô, tầu chiến địch, 51 xe vận tải,
phá hủy 3 kho quân trang, thu 529 súng các loại và 120.000 viên đạn bộ binh....
Với những thành tích đó, Hòa Bình đã vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng
16 Huân chương Quân công, 23 Huân chương chiến công, 14 huyện, thị xã, xã và 6
cá nhân được phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, 47 bà mẹ được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt
Nam anh hùng”. Nhà bảo tàng của tỉnh đã lưu giữ được điều ấy, nếu không có các
anh thì thế hệ con cháu sau này biết tìm ở đâu, biết có ai, có cái gì làm nhân
chứng lịch sử. Rồi họ có thấu được nỗi đau mất nước không? có thấy được kiếp
người trâu ngựa như cuộc đời vợ chồng A Phủ hay không? có hiểu được điều đó,
thấu hiểu được lịch sử, thì lớp trẻ hô, nay mới có chỗ dựa tinh thần, có đà cất
cánh và từ đây mới nảy sinh những chiến công mới, trí tuệ mới và con người mới,
chung tay xây dựng Hòa Bình, chinh phục sông Đà. Trong cái sức sống chung đó có
Bình Thanh - mảnh đất ghi dấu ấn của huyện thoại anh hùng Cù Chính Lan, hãy bay
lên nhé Bình Thanh ơi, Hòa Bình ơi !.
Nguyễn Văn Lai
T̀NH NGƯỜI BIÊN GIỚI!
Truyện ngắn
Ngày ấy, Tiểu đội học viên chúng tôi
đi thực tập ở một đơn vị đóng quân gần Biên giới Lạng Sơn. Chúng tôi được phân
công về một Tiểu đoàn bộ binh đóng chốt tại khu vực gần đường Biên. Từ trung
đoàn bộ lên đến chốt cách xa khoảng 25 đến 30 km. Sau khi nhận nhiệm vụ, chiều
hôm đó tiểu đội tôi hành quân lên chốt luôn, Tiểu đoàn 6 nơi chúng tôi đến thực
tập chốt giữ trên các điểm cao với chính diện rộng khoảng vài ba cây số. Là
những học viên sau 4 năm học tập tại trường, chúng tôi đă tiếp thu được một
lượng kiến thức quân sự, chính trị tương đối đủ để chỉ huy phân đội nhỏ. Bây
giờ đi thực tập tại đơn vị cơ sở, sau đó về trường thi tốt nghiệp quốc gia
xong, chúng tôi sẽ trở thành Sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. V́ vậy, lần
đầu tiên được đi làm nhiệm vụ với cương vị là cán bộ Trung đội trưởng, chúng
tôi vừa mừng, vừa lo, liệu có hoàn thành được nhiệm vụ chỉ huy đơn vị hay
khụng?
Hôm ấy Tiểu đội chúng tôi hành quân
theo con đường Lâm nghiệp lên trận địa, vượt qua nhiều đèo dốc, trời lại mưa to
như trút nước đường đất sụt lở nhiều, nhưng với sự phấn khởi trước nhiệm vụ mới
mẻ, nên Tiểu đội chúng tôi không quản ngại mưa gió và đă hành quân đến nơi đóng
quân của Tiểu đoàn trước khi trời tối. Nhưng oái oăm thay, muốn sang trận địa
của Tiểu đoàn chúng tôi phải vượt qua con suối phía trước mặt đang ầm ầm tuôn
chảy. Bên này suối là một bản người Nùng, cả Tiểu đội dừng lại chuẩn bị vượt
suối. Chúng tôi gói ba lô vào ni lông định bơi sang bên kia, nhưng nước chảy
mạnh, ḷng suối rộng không tài nào sang được. Hoàng hôn dần dần buông xuống,
trời biên giới, bóng tối đến rất nhanh, loay hoay măi chúng tôi vẫn chưa vượt
qua được trước ḍng suối đang giận dữ này. Biết được tin có chúng tôi lên thực
tập, cán bộ tiểu đoàn cử người ra đón chúng tối, nhưng cũng không sang được
suối, đành phải quay lại đơn vị xin ư kiến chỉ huy Tiểu đoàn cho tiểu đội học
viên thực tập chúng tôi nghỉ lại bên này suối. Khi nào nước rút, vượt được suối
th́ từ lên đơn vị sau. Trong bóng chiều Biên giới, khói bếp đă giăng đầy trên
những mái nhà của một bản người Nùng gần đấy. Hoàn cảnh Tiểu đội chúng tôi rơi
vào thế tiến thoái lưỡng nan. Gạo và tiền ăn nộp hết ở Tài vụ trung đoàn, qua
điện thoại cơm chiều đă báo trên Tiểu đoàn nơi chúng tôi sẽ đến thực tập, mà lẽ
ra phải có mặt chiều nay. Lần đầu tiên chúng tôi lên Biên giới, địa h́nh mới
lạ, người và đất chưa quen, biết làm thế nào đây? Ngủ lại bên bờ suối ư? Không
được! Mỗi người một chiếc ni lông và sẽ ướt hết. Ngày mai sẽ ra sao, nếu trời
c̣n mưa và nước suối chưa rút. Hơn nữa, chúng tôi đi thực tập có tổ chức, có
chỉ huy, cả một Tiểu đội hẳn hoi đấy chứ.
- T́nh h́nh này phải vào nhà dân ngủ
nhờ thôi anh em ạ! Trần Văn Tuynh – một học viên trong Tiểu đội đề nghị như
vậy.
- Đúng đấy, Tôi và những học viên khác
cũng đồng thanh đề nghị.
Tiểu đội trưởng Nguyễn Khắc Tính chần
chừ không dám quyết và nói:
- Thứ nhất là chúng ta không có ai
biết tiếng dân tộc, thứ hai là không biết
t́nh h́nh an ninh ở đây ra sao? Chúng ḿnh phải cảnh giác các đồng chí ạ!
Thấy vậy, tôi đề nghị: - Chúng ta cứ
vào một nhà dân tŕnh bày rơ với họ, chắc chắn trong nhà sẽ có người nói được
tiếng Phổ thông. Hơn nữa đồng bào Biên giới chắc
là sẽ tốt nên bộ đội ta mới trụ vững được như vậy chứ. Phải tin vào dân anh em
ạ!
Chúng tôi c̣n đang bàn tán và do dự
chưa biết đi hay ở th́ thấy một phụ nữ đi về phía chúng tôi, chị mặc bộ quần áo
chàm. Nếu không đến gần chúng tôi không tài nào phân biệt được là già hay trẻ.
Đến bên chúng tôi, sau khi lấy chiếc nón lá cọ ra khỏi đầu mọi người đều ngỡ
ngàng, hóa ra là một cô gái c̣n rất trẻ. Bằng một giọng lơ lớ cô gái cất tiếng
chào:
- Chào bộ đội ạ! Sao bộ đội lại đứng
đây măi thế?
- Chào đồng bào! Không biết gọi cô gái
là ǵ, tôi vội lên tiếng – đồng bào đi đâu về đấy?
- Cái ḿnh đi nương lấy rau về cho con
lợn, thấy bộ đội đứng đây măi, tối rồi c̣n ǵ, thôi về nhà ḿnh nghỉ đi, nước
suối to lắm không sang được đâu. Ở dưới suối có nhiều đá ngầm lắm đấy, đừng có
lội xuống mà cái suối nó ăn mất bộ đội đấy.
Chúng tôi nghe giọng cô gái nói vừa
buồn cười, vừa thích thú, nhưng không ai dám
cười cả. Mọi người nh́n nhau chưa biết xử trí thế nào th́ Trần Văn Tuynh lên
tiếng:
- Chúng ta về nhà cô gái xin ngủ nhờ
thôi, Tiểu đội trưởng ạ!
- Ừ th́ đi, Tiểu đội trưởng đồng ư.
- Nhà Đồng bào ở đâu, có xa không? Tôi
hỏi cô gái.
- Không xa đâu Bộ đội ạ! Ngay trong
bản đây, cái nhà lúc năy bộ đội vừa đi qua đó.
- Xin cảm ơn Đồng bào! Chúng tôi đồng
thanh nói.
Đeo ba lô theo cô gái về nhà, sau khi
chào hỏi gia đ́nh, chúng tôi xin phép được nghỉ trọ qua đêm, ngày mai nước suối
rút, sẽ trở lại đơn vị.
Gia đ́nh bố trí cho chúng tôi ngủ trên
một chiếc giường bằng những tấm ván ghép lại rất giộng, đủ chỗ cho cả tiểu đội
nằm. Sau khi xếp đặt ba lô gọn gàng, ngoài trời đă tối mịt, trong nhà ngọn đèn
dầu sáng lên soi đủ thấy được gia đ́nh nhà chủ, chỉ có hai ông bà và hai cô
gắng. Có lẽ cô gái gặp và đưa chúng tôi về nhà là cô em, c̣n cô chị th́ chỉ
nh́n chúng tôi một lát rồi bỏ vào buồng riêng. Sau này chúng tôi mới biết th́
ra cô đă có chồng, nhưng theo phong tục người Nùng, gái đă có chồng nhưng chưa
có con th́ chưa được về nhà chồng.
- Bộ đội từ dưới thị xă lên, có lẽ
chưa ăn cơm phải không? Đưa gạo đây ḿnh nấu cho. Cô gái trẻ ngượng nghịu nói
với chúng tôi như vậy.
Mọi người lúng túng nh́n nhau chưa
biết trả lời như thế nào th́ Tiểu đội trưởng nh́n tôi nháy mắt, v́ tôi là tiểu
đội phó nên vấn đề hậu cần trách nhiệm thuộc về tôi. Tôi nhanh nhẩu trả lời:
- Có lẽ phải nhờ đến em thôi. Nói vậy
rồi tôi bước đến chỗ ông bố của cô gái đang ngồi uống nước và nói tiếp:
- Con chào bố ạ!
- Chào bộ đội! Mời bộ đội ngồi uống
nước với bố!
-
Dạ, con mời bố xơi nước ạ! Bố ơi, con muốn hỏi bố một việc có được không ạ?
- Bụ̣ đội hỏi ǵ ta?
- Chúng con muốn vay của bố một ít gạo
nấu cơm ăn? Tôi mạnh dạn đề nghị với bố như vậy- Hôm sau lên đơn vị chúng con sẽ
mang gạo xuống trả lại cho bố sau.
- Ồ bộ đội chưa ăn cơm à! Thế th́ gạo
của bố vẫn c̣n đấy. Vi à, lấy gạo nấu cơm cho bộ đội ăn với.( Vi là tên cô gái
trẻ)
- Bố cứ cho chúng con vay gạo, chúng
con sẽ trả cẩn thận cho bố. Tôi lúng túng đề nghị thêm một câu thừa và lạc lơng
như vậy.
Sau khi ăn cơm, chúng tôi ngồi quây
quần bên ấm chè xanh vùng cao nấu cả cọng uống nước và nói chuyện với bố già và
cô gái, t́m hiểu được tí chút về phong tục của người Nùng vùng núi Lạng Sơn.
Đêm hôm đó, chúng tôi cắt gác cẩn thận, không hiểu lư do ǵ mà ai cũng khó ngủ.
Trời vùng cao tuy lạnh, nhưng chúng tôi cảm thấy ấm cún vô cùng khi được ngủ
trong nhà dân và có thêm t́nh cảm chân thành của gia đ́nh người đồng bào dân
tộc. Ngày hôm sau nước suối rút, chúng tôi đă được đơn vị thực tập, mỗi học
viên được điều về một trung đội làm trung đội trưởng. Tôi được về phụ trách một
trung đội đóng chốt ở cao điểm 380 thay cho đồng chí trung đội trưởng cũ được
cử đi công tác ít lâu. Là tiểu đội phó học viên tôi có trách nhiệm thanh toán
số gạo chưa ăn của tiểu đội mang xuống nhà cô Vi hoàn trả cho gia đ́nh. Từ mối
quan hệ bước đầu tốt đẹp này nên tôi và các đồng chí trong tiểu đội học viên
thực tập thỉnh thoảng xuống nhà Vi chơi, nên t́nh cảm giữa gia đ́nh và chúng
tôi, nhất là đối với tôi ngày càng gần gũi, thân thiết. Cô Vi có lẽ cũng mến
chúng tôi, nh́n nét mặt của em tôi đọc điều đó. Những lần xuống bản chơi, bố
già và Vi vẫn thường múc rượu ( thứ rượu được ủ rất kỹ vừa mới cất) cho chúng
tôi uống và hái hoa quả vùng cao cho chúng tôi ăn.
Trung đội do tôi phụ trách là trung
đội độc lập, anh em chiến sỹ nhập ngũ đă được một vài tuổi quân. Họ ở trên Biên
giới cũng bằng ấy năm tháng. Nói chung công việc của tôi được suôn sẻ, không có
trắc trở cả. Mọi công tác huấn luyện và chỉ huy đơn vị tôi luôn vận dụng linh
hoạt, sáng tạo những bài học ở trường nên cũng khá thuận lợi. Ở Biên giới lâu
ngày anh em chiến sỹ khao khát t́nh cảm hậu phương, ít được nghe thời sự. V́
vậy, những lúc rỗi răi tôi thường kể chuyện hậu phương, chuyện nhà trường chính
quy nơi chúng tôi đang học tập, rèn luyện, thông báo một số tin thời sự mà tôi
nắm được cho chiến sỹ nghe, nên dần dần họ rất quư và thường xuyên gần gũi tâm
sự với tôi nhiều điều về họ.
Một buổi chiều, sau khi đi giao ban
trên đại đội về, tôi thấy anh em chiến sỹ trong trung đội có mặt đầy đủ cả, trừ
một số đồng chí làm nhiệm vụ canh gác. Sau khi chào mọi người nhận tiện đông đủ
tôi phổ biến t́nh h́nh nhiệm vụ mới cho đơn vị luôn. Khi tôi phổ biến nhiệm vụ
xong, một số chiến sỹ đă vội bê lên bàn những chiếc đĩa hai ngăn đầy thịt thơm
lừng, bên cạnh là những bi đông rượu vừa mới mua dưới bản. Tôi ngạc nhiên vội
hỏi:
- Thịt thơm, rượu ngon nhiều thế này anh em lấy ở đâu ra thế?
Không thấy ai trả lời, im lặng một lúc, mấy chiến sỹ nh́n nhau rồi một người
tên là Hùng lên tiếng:
- Anh Toàn ạ! Từ hôm anh lên đơn vị đến nay, chúng em chưa có ǵ liên hoan
đón anh được. Hôm nay mới có điều kiện chúng em tổ chức cải thiện cũng là để
liên hoan đón anh luôn một thể.
Thấy ḷng tốt của anh em chiến sỹ, tôi rất cảm động và không nỡ chối từ và
thế là chúng tôi liên hoan vui vẻ, 2 đĩa thịt cùng 2 bi đông rượu cạn dần.
- Thịt dê non đấy anh ạ! Lâu lắm rồi hôm nay mới được thưởng thức món này
đấy anh Toàn ạ. Uống đi anh!
- Tớ hỏi thật nhé – Chưa phát phụ cấp, thế anh em ḿnh lấy đâu ra tiền mà
chiêu đăi ḿnh đấy?
-Trung đội trưởng ơi! Anh không phải lo. Anh về đơn vị mà không có ǵ đón
anh, chí ít là vui vẻ một buổi liên hoan th́ chúng em áy náy lắm.
Tôi chân thành cám ơn toàn thể trung đội và tiếp tục liên hoan cho đến khi
hết thịt rượu và giải tán. Chiều hôm sau tôi dẫn một phận của trung đội lên
tiểu đoàn công tác khi về qua đầu bản đă
thấy Vi đứng chờ gặp tôi, với nét mặt không vui, Vi bảo:
-Bố ḿnh bảo bộ đội Toàn vào nhà gặp bố đấy!
Tôi vội giao cho một đồng chí tiểu đội trưởng chỉ huy đơn vị trở về, c̣n
tôi cùng Vi đi vào nhà bố già. Trên đường Vi nói nhỏ với tôi:
- Bố em biết hôm qua bộ đội Toàn bắt dê của nhà Vi giết thịt, không xin
phép bố. Bố giận lắm đấy, nhưng bố chưa báo cáo thủ trưởng tiểu đoàn đâu, Cán
bộ Toàn mau vào xin lỗi bố đi, kẻo bố buồn, bố bảo thủ trưởng đấy vớ.
Tôi giật ḿnh, lạnh toát cả người. Té ra là như thế, thịt dê mà anh em
chiến sỹ đăi tôi hôm qua là thịt dê của gia đ́nh Vi. Tôi ngượng chín cả người,
nhưng không biết làm thế nào được, đành ấp úng hỏi vội Vi.
Có thật thế không hả Vi, em kể cho anh biết rơ sự t́nh xem nào? Tôi hoảng
hốt yêu cầu Vi như vậy.
Vi thong thả kể cho tôi nghe. Nhà Vi có một đàn dê 5 con,
trong đó có một con nhỏ nhất bị què, thường thường đi ăn bao giờ cũng về muộn
hơn cả đàn, hôm nào bố cô cũng phỉ đi t́m. Chiều hôm qua t́m măi không thấy dê
con, nhưng tới khe núi, nơi đơn vị anh đóng quân bố nh́n thấy mấy anh chiến sỹ
của bộ đội Toàn đang mổ thịt dê. Bố định báo cáo ngay với cán bộ Tiểu đoàn
nhưng biết là bộ đội của đơn vị anh, mấy anh bộ đội đó bố đă nhớ mặt rồi, nên
bố chờ gặp bộ đội Toàn để báo cáo đó thôi, bố không muốn bộ đội Toàn bị kỷ luật
đâu vớ.
Tôi thầm cảm ơn bố già và nhanh chóng cùng Vi bước vào nhà gặp bố.
- Con chào bố ạ! Tôi vội vàng lên tiếng.
Bố già không nói ǵ cả, làm tôi càng thêm hoảng và không biết điều ǵ sẽ
sảy ra tiếp theo.
- Con xin lỗi bố và gia đ́nh! Tôi đến gần bố và nói giọng run run, anh em trong đơn vị con đă biết có lỗi với bố rồi, con
thay mặt đơn vị xuống nhà để xin lỗi bố đây.
- Ồ cái bộ đội Toàn đó à! Bất ngờ bố quay lại và nói. Bắt dê của bố rồi bây
giờ c̣n xin lỗi nữa à.
Tôi thành khẩn nhận khuyết điểm với bố và gia đ́nh, xin được hoàn trả lại
dê cho bố bằng tiền mặt. Bố già dần dần nguôi giận và nói:
- Tao biết bộ đội không có tiền để liên hoan đón khách, lúc tao gặp và nghe
mấy bộ đội chiến sỹ mổ thịt dê nói với nhau vậy mà, nên tao không lấy lại dê đó
thôi. Nhưng cái bố không được làm thế, không tốt đâu nhé. Của đồng bào phải mua
hoặc xin chứ, may mà bắt dê của bố, chứ bắt dê của nhà khác th́ gay go rồi đấy
bộ đội Toàn ạ. Con dê của bố đă bị què rồi, bố không tiếc đâu, bố cũng định mổ
thịt mời bộ đội Toàn ăn đấy.
Như “Chết đuối vớ được cọc”, tôi vội vàng cảm ơn bố già và Vi rồi xin phép
bố trở về đơn vị. Tối hôm đó tôi tập trung toàn trung đội sinh hoạt phê phán
gay gắt việc làm trên và bắt những người cầm đầu viết bản kiểm điểm tường tŕnh
lại những hành vi sai trái đó. Cuối cùng toàn trung đội đi đến thống nhất trích
một phần tiền phụ cấp của chiến sỹ trong trung đội, trong đó có cả của tôi mang
đến trả cho gia đ́nh bố già dưới bản. Ngày hôm sau, tôi trực tiếp dẫn một số
chiến sỹ chủ mưu gây ra sự việc trên đến gặp gia đ́nh Vi trả tiền và một lần
nữa xin lỗi bố. Sau khi nghe tôi đặt vấn đề và xin được trả tiền, bố già nh́n
tôi với nét mặt không vui và nói:
- Bộ đội Toàn khinh bố thế. Đă xin lỗi bố rồi th́ thôi chứ, lại c̣n đem
tiền đến trả là không tốt đâu vơ. Bố lấy tiền của bộ đội mà làm ǵ? Bố ủng hộ
bộ đội Toàn và các chú con dê đó đấy.
Nh́n nét mặt cương nghị của bố già, tôi lúng túng thực sự, chỉ biết mong bố
một lần nữa thông cảm cho tôi và đơn vị mà thôi. Bố già lấy rượu mời tôi uống,
nhưng tôi đâu c̣n bụng dạ nào mà uống nữa. Tôi chào bố ra về, Vi đi theo và em
nói với tôi:
- Cán bộ Toàn chỉ huy bộ đội kém đó! Để chiến sỹ vi phạm kỷ luật dân vận
đấy. Nhưng Vi không giận cán bộ Toàn đâu, Vi chào cán bộ Toàn nhé, nhớ xuống
nhà Vi chơi nhé, Vi nhớ cán bộ Toàn nhiều đấy. Nói rồi em e thẹn quay về nhà.
Trở lại trung đội, tôi tiếp tục công tác và sẵn sàng chiến đấu với anh em
chiến sỹ cho đến hết đợt thực tập. Sự việc đó của trung đội tôi trong đại đội
và tiểu đoàn không ai biết cả.
Hết thời gian thực tập, tôi đến chào bố và Vi. Gia đ́nh em tỏ ra quyến
luyến tôi lắm, Vi sách một túi Mác cọc (quả Lê) cho vào ba lô tôi và em th́
thầm “Anh mang đi đường ăn cho mát”. Tạm biệt Biên giới, tôi hứa với bố già và
Vi khi có điều kiện tôi sẽ lên thăm gia đ́nh và không bao giờ quên được những
kỷ niệm về t́nh người biên giới. Nh́n Vi bất giác tôi thấy lúc này em đẹp quá,
từ đôi mắt tṛn đen, đến cái miệng nói có duyên, cả bộ quần áo chàm đen em mặc
cũng thế, thường ngày tôi thấy b́nh thường mà sao hôm nay tôi thấy em đẹp lạ
lùng đến thế. Tôi thầm kêu lên bên tai em: Cám ơn em! Vi đẹp quá! Vi tốt
quá!
Về trường, tôi vẫn được nhận xét là
hoàn thành tốt nhiệm vụ thực tập. Bây giờ tôi đă là Sỹ quan, là cán bộ thực thụ
rồi, nhưng tôi vẫn nhớ bài học khi đi thực tập lần ấy. Tôi cứ thấm thía măi,
nhân dân ta thật là tuyệt vời t́nh người Biên giới đằm sâu như vậy, làm sao tôi
có thể nào quên.
Nguyễn
Văn Lai
NHỚ LẮM, CÂY
GẠO LÀNG TÔI!
“Cây đa, bến nước, sân đ́nh” là biểu tượng của làng quê Việt Nam, quê hương
thân yêu của chúng ta hầu như bất kỳ một thôn, một làng nào cũng có những cây
si, cây đa, cây gạo......đó là “quốc túy, quốc hồn” của làng xă Việt Nam. Dưới
gốc cây si, cây đa, cây gạo là nơi linh thiêng, nơi thờ thành hoàng, nơi nghỉ
mát những buổi trưa hè nóng nực, nơi tránh băo giông, nơi trẻ chăn trâu tụ tập
đánh đáo, chơi cù....ở đó c̣n là cột mốc, là “điểm nhấn ” của một làng, mà đi
đâu, ở đâu người làng quê vẫn nhớ về một thời tuổi trẻ của ḿnh.
Làng
tôi (Tương Lạc, Hà Phong, Hà Trung, Thanh Hóa) có một cây gạo cổ thụ, khi tôi
sinh ra và lớn lên đă thấy cây gạo ở đấy rồi. Cây gạo đứng sừng sững ở “cửa
đ́nh” (nhưng khi tôi sinh ra đ́nh làng không c̣n nữa). Cây gạo làng tôi cao và
to nhất vùng, đứng từ xa đă nh́n thấy rồi. Làng tôi, xă tôi luôn tự hào về cây
gạo ấy. Với con mắt ước lượng của tôi, cây gạo cao khoảng trên một trăm mét,
gốc to đến hơn một chục người ôm không xuể, mùa hè cành lá xum xuê, trên cây có
rất nhiều chim chóc làm tổ, ở đó có một vài tổ quạ, tổ chim hắc là, c̣n các
loại tổ chim chèo bẻo, cà kiểng, chim gáy, chim ngói nhiều vô kể. V́ cây gạo
cao và to quá, nên mặc dù có nhiều chim làm tổ nhưng không ai có thể phá được,
người lớn c̣n chịu nữa là trẻ con tụi tôi. Nh́n các loại chim to, chim bé làm
tổ trên cây, chúng tôi ngước mắt thèm thuồng nhưng đành chịu, chỉ c̣n cách dùng
súng cao su bắn ngược lên nhưng ít khi trúng đích, nếu có trúng đạn đuối tầm
hiệu quả cũng không cao. Chính v́ thế, trên cây gạo lúc nào cũng ồn ào, tao
tác, náo loạn mỗi khi có diều hâu đến. Nhưng lại có một loại chim rất anh dũng,
xông ngay vào tử chiến với diều hâu, từng bầy chèo bẻo đoàn kết nhào lao thẳng
vào con diều hâu to xác tấn công, trông mới kiêu hănh làm sao. Tuổi trẻ chúng
tôi thích nhất là cảnh ấy và cũng rất yêu thích chim chèo bẻo nên không bao giờ
bỏ sót cơ hội chiến đấu của loài chim ấy. Có lẽ tính cách của làng tôi cũng
được h́nh thành từ bức tranh hoành tráng đó nên trong chiến tranh dân làng đoàn
kết chống lại kẻ thù. Biểu hiện rơ nhất trong cuộc chiến tranh phá hoại bằng
không quân của giặc Mỹ, mặc dù bị bom quân thù tàn phá nặng nề nhưng dân làng
tôi đă đoàn kết một ḷng giúp với bộ đội pháo pḥng không chủ lực quật ngă nhiều
máy bay của địch tại quê hương. Dân quân xă tôi anh dũng lắm, máy bay Mỹ đến,
các O dùng súng trường bắn trả, tiếp đạn cho các trận địa pháo pḥng không của
bộ đội, thay thế pháo thú bị thương tiếp tục bắn trả máy bay quân thù, huyền
tích đó lịch sử quê hương đều ghi và ḷng dân c̣n nhớ măi.
Tháng
ba, cây gạo làng tôi nở hoa như một bó đuốc khổng lồ, từng bông đại đóa nở
bung, mầu đỏ rực như thắp lửa. Trên cây chim chóc vào mùa sinh sản, ríu rít ca
vui. Tụi trẻ chăn trâu chạy nhảy tung tăng dưới gốc cây gạo, ngửa mặt bắn chim,
hứng đón những bông hoa gạo xoay tṛn rơi xuống. Cuối mùa, những bông hoa gạo
roi lă tră, nh́n xa như những tàn lửa sáng rực của những ngôi sao băng rơi từ
ngọn cây xuống gốc, tạo cảm giác tiếc nuối không nguôi. Những người xa quê trở
về khi mùa hoa gạo đỏ cứ muốn đứng lặng ngắm măi những bông lửa rơi rơi mà nhớ
về một thời tuổi trẻ buồn vui của ḿnh. Thế mới biết quê hương là thiêng liêng
quá, quê hương là bông hoa gạo rơi, là đầy trời tiếng chim ca hót, là sao mà
quên được hỡi người.
Cây
gạo là biểu tượng của làng, khi quê hương chưa phát triển, nhà cửa cao tầng
chưa mọc lên san sát như bây giờ, từ xa nh́n thấy cây gạo là biết rằng nơi ấy
là làng Kéo – cái tên cúng cơm từ đời xa xưa ông bà đă đặt tên cho làng tôi như
vậy. Chẳng hiểu ư nghĩa của cái tên này như thế nào mà ông cha lại lấy nó để
đặt tên cho làng, có lẽ đây chính là nơi “đất lành chim đậu”, mảnh đất phù sa
sông Lèn (một nhánh sông chính của sông Mă) đă là nơi “chim đậu” của bao lớp
người đi trước lập nên và xây dựng làng quê yêu thương này. Người đời sau chúng
tôi cứ hiểu rằng “Làng Kéo” tức là nơi hội tụ, nơi kéo về những ǵ tinh tú
nhất, nơi thu hút t́nh người, nơi mang đến những tấm ḷng thủy chung, yêu quên
hương, đất nước dưới gốc cây ngàn tuổi này chăng.
Dưới
tán của cây gạo làng tôi là một khoảng đất bằng phẳng với lớp cỏ gà dầy mịn,
thứ cỏ mà tụi trẻ chăn trâu chúng tôi vẫn thường ngắt ngọn để chơi chọi gà khi
trước. Nơi đây một thời là trạm gác dân quân, đánh kẻng báo động có máy bay Mỹ
xâm phạm làng quê. Từ cây gạo làng tôi đến cầu Đ̣ Lèn – một trọng điểm giao
thông đánh phá của không quân địch chỉ khoảng 1km. Ngày ấy phải chăng là điều
kỳ lạ: Cả làng tôi từ đồng mạ, bờ sông đến đường thôn, ngơ xóm, đâu đâu cũng bị
bom Mỹ cày xới tơi bời, thế mà cây gạo cao như thế, to như thê vẫn đứng sừng
sững, xanh tốt đến diệu kỳ, cả khu đất bằng gần gốc gạo cũng không hề hấn ǵ.
V́ vậy, băi bằng dưới gốc gạo là nơi xă đội dùng làm chỗ để tập hơp thanh niên
giao nhận quân, tập quân sự, sau này chúng tôi c̣n dùng làm nơi tập thiếu nhi,
nơi nghỉ mát mỗi khi đi làm đồng về....Cây gạo là niềm tự hào, nơi chở che, nơi
cho bóng mát, nơi giao lưu của lứa tuổi học tṛ.
Thế mà, cây gạo làng tôi giờ này không
c̣n nữa, một trận lụt to hay sự ô nhiễm môi trường của thời mở cửa đă cướp mất
cây đi rồi. Người xa quê trở về không c̣n thấy cây gạo nữa, sự nuối tiếc dâng
trào và như bóp nghẹt trái tim của những đứa con yêu quê hương. Đă không c̣n
cái mốc để định hướng mỗi khi về làng, không c̣n những mùa hè thắp lửa đầu thôn
nơi ngọn cây như trước. Dù thế nào th́ niềm tự hào về làng quê, nơi một thời
tuổi trẻ với những mái tranh nghèo mà anh dũng biết bao. Làng tôi cũng như bao
nhiêu làng quê khác đă chiến thắng cái nghèo, cái dốt để vươn lên. Hôm nay, bộ
mặt của làng tôi đă đổi mới, con đường bê tông chạy giữa làng hối hả nhịp bước
chân và ḍng xe cộ, mang đến những ấm no, hạnh phúc cho mọi nhà.
Nguyễn
Văn Lai
KỶ NIỆM NHỎ VỀ ĐÀI
Theo
tụi, một trong những phát minh vĩ đại nhất của loài người đó là phát minh ra
Rađiô. Ở Việt Nam, đài là một trong những phương tiện thông tin đại chúng có
đóng góp rất quan trọng và to lớn trong đời sống chính trị xă hội. Đặc biệt,
trong thế kỷ 20, Đài Tiếng nói Việt Nam lại càng có vai tṛ cực kỳ quan trọng,
góp phần đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH đến thắng lợi
hoàn toàn. Tôi là người sinh ra và lớn lên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, được chứng kiến những gian khổ ác liệt, cũng như chiến thắng lẫy lừng
của quân và dân ta trên các trận tuyến của 2 miền Nam, Bắc. Nói là được chứng
kiến, nhưng thực tế tôi chỉ “mục sở thị” khi giặc Mỹ dùng không quân đánh phá
miền Bắc, mà trực tiếp là ở khu vực cầu Đ̣ Lèn – Thanh Hóa quê hương tôi mà
thôi, c̣n lại là nhờ Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin, chắc có lẽ nhiều người
cùng thời cũng như tôi mà thôi. Say sưa nghe đài, khát khao có một chiếc đài để
nghe tin tức là một thực tế bi hùng của cả đất nước ta thời đó. Nói về Đài
Tiếng nói Việt Nam và chiếc đài bán dẫn chắc hẳn nhiều người cũng có những kỷ
niệm vui buồn khác nhau. Riêng tôi, tôi có một vài kỷ niệm nhỏ với Đài mà đến
bây giờ thời đại thông tin bùng nổi và phát triển tôi vẫn không bao giờ quên
được.
Vẫn biết những năm 60 của thế kỷ
trước, có một chiếc đài bán dẫn là một tài sản rất quư và hiếm mà ở nông thôn
như gia đ́nh tôi ít nhà có được, nhưng ai cũng có những ước mơ và mong muốn,
tôi không nằm ngoài số đó. Lúc ấy, tôi c̣n bé, tuổi thơ được sống và học tập
dưới chế độ XHCN nên nghe Đài Tiếng nói Việt Nam là một niềm đam mê và thích
thú. Ở làng, gia đ́nh có một chiếc đài riêng là rất oách và có đông khách đến
chơi, uống nước chè xanh, nghe đài hát. Cũng giống như những đứa trẻ khác,
ngoài giờ học hành ra, buổi tối chúng tôi thường tụ tập ở sân kho Hợp tác xă,
dưới chân cột điện bằng tre có chiếc loa công cộng để được nghe đài, thích nhất
là được nghe những ca khúc viết về thiếu nhi của nhạc sỹ Phong Nhă. Tôi là một
đứa trẻ ít hiếu động, không nghịch ngợm như chúng bạn, nên chủ yếu là ngồi dưới
gốc cột điện nghe đài và tôi đă chiếm được một góc của chân cột điện ấy. Tôi kê
mấy ḥn gạch làm chỗ riêng cho ḿnh, không cho ai xâm phạm. Chính điều ích kỷ
đó đă dẫn đến cho tôi một bài học và kỷ niệm nhớ đời khó quên. Vốn say mê nghe
đài, vị trí ngồi của tôi là “lănh thổ thiêng liêng và bất khả xâm phạm”
của ḿnh, nhưng bọn trẻ th́ đâu có theo ư muốn của tôi, chúng thường quấy phá và tranh giành với tôi như cơm bữa. Nhiều
lần tôi thua, bị mất chỗ, nên tôi rất tức tối và nghĩ rằng ḿnh phải bảo vệ
bằng được “lănh thổ” của ḿnh. Tôi nhờ ông chú ruột làm cho một
khẩu súng phốc bắn trái xoan thật tốt.
Tối hôm đó, tôi đang ngồi trên “lănh thổ” nghe đài th́ những đứa
trẻ cùng lứa kéo nhau đến đùa nghịch quấy phá, cướp chỗ của tôi, bực ḿnh, sẵn
cây súng phốc tôi nhằm thẳng vào mặt một tên là Nhượng bắn mạnh, một tiếng “ái”
vang lên, ngay sau đó tôi liền hứng chịu nửa ḥn gạch vào đầu, máu chảy lênh
láng, may thay, có người đưa về nhà gọt tóc, dịt thuốc lào, cầm máu. Một tháng
sau tôi mới lành vết thương và không bảo vệ được “lănh thổ” của
ḿnh nữa, mà chỉ lẳng lặng đứng nép bờ tường sân kho nghe ca nhạc từ chiếc loa
công cộng mà thôi.
Kỷ niệm thứ hai tuy không lớn nhưng
gợi lại cho tôi nỗi buồn của thời bao cấp. Đó là vào những năm đầu của thập
niên 80, thế kỷ 20, lúc này tôi đă là chiến sỹ trong Quân đội nhân dân Việt
Nam. Khi được nghỉ phép thăm nhà, gia đ́nh tôi làm nông nghiệp, năm ấy đầu tiên
khoán sản được mùa, nên nhà tôi thu hoạch khá hơn những vụ trước. Nếu tính toán
số thóc để cả nhà ăn kế vụ tới th́ vẫn c̣n thiếu, nhưng bố mẹ tôi vẫn quyết
định sắm một chiếc đài để nghe. Muốn mua đài nhưng chẳng có ở đâu bán, mà có
bán giá cũng rất đắt. Với điều kiện kinh tế thiếu ăn như gia đ́nh tôi th́ không
thể nào có tiền mặt để mua nổi chiếc đài. May thay, làng bên có chị Hạnh là bạn
học của chị gái tôi, hiện là một nhân viên bán hàng ở bách hóa huyện, chị Hạnh
đă nhận lời mua giúp nhà tôi một chiếc đài bán dẫn nhăn hiệu Véc 206 của Liên
Xô, nhưng không phải mua bằng tiền mặt mà theo phương thức đổi thóc lấy đài.
Gần 3 tạ thóc để đổi một chiếc đài Véc, bố mẹ tôi phải bấm bụng xuất thóc ra.
Tôi giúp gia đ́nh chở gần 300kg thóc trên chiếc xe cải tiến ́ ạch ra cửa hàng
bách hóa huyện. Chờ măi mới đổi được mang đài về, cả nhà hân hoan reo mừng
nhưng khi mở đài th́ đài chẳng nói được v́ không có pin, 6 quả pin để lắp vào
chiếc đài Véc 206 nhà tôi đào đâu ra lúc bấy giờ. Mua đài về cả tháng mới đủ
mua pin lắp vào nghe, rồi chỉ được ít bữa là hết pin. Thế rồi chiếc đài được
lau bóng loáng đặt ngăn nắp trên bàn trông rất oai vệ nhưng không kêu được. Cái
khó ló cái khôn, bố tôi học được cách làm pin nước, từ đó dưới gầm giường nhà
tôi đầy những lọ nhỏ và những cục pin thối, thế nhưng đài lại nói được, ai nấy
trong gia đ́nh đều phấn khởi hẳn lên, tối tối tập trung nghe đài.
Kỷ niệm vui nhất của tôi cũng là từ
nghe đài. Khi tôi đi học sỹ quan, là học viên tôi bắt đầu viết “ Chuyện
kể ở đại đội” và mạnh dạn gửi về “ Chương tŕnh phát thanh Quân đội
Nhân dân – số 58 phố Quán Sứ – Hà Nội”. Bài gửi đi rồi là sự chờ đợi, nhưng chỉ
là chờ đợi mong manh. Cuộc đời học viên thời ấy chẳng kiếm đâu ta một chiếc đài
bán dẫn mà chỉ nghe tin tức và ca nhạc qua loa công cộng theo thời gian quy
định. Thế mà tôi vẫn cố gắng phục nghe bằng được bài viết của ḿnh trên đài.
Hôm đó, sau khi điểm quân số trung đội xong, khi có tiếng c̣i “tắt đèn đi
ngủ” của trực ban đại đội thổi vừa rứt, tôi vội mắc màn và lẳng lặng
rời pḥng ngủ đến phía sau nhà của chỉ huy đại đội, nơi đó có chiếc đài bán dẫn
của anh Minh- Chính trị viên đại đội đang phát chương tŕnh Quân đội nhân dân
để lén nghe. Vừa lúc đó đến tiết mục “Chuyện kể ở đại đội”, giọng
anh Phạm Đông vang lên “Các đồng chí a!”, tôi nghe đúng là bài “T́nh
người biên giới” tác phẩm đầu tay của tôi đang phát trên làn sóng Đài
Tiếng nói Việt Nam. Tôi vui mừng quá, đứng chôn chân tại chỗ thưởng thức dần
sản phẩm tinh thần của ḿnh qua từng giọng đóc của người nghệ sỹ mà không hay
biết rằng có người đang theo dơi từng hành động của ḿnh. Họ tưởng tôi là một
tên trộm đang có hành động lén lút ǵ đây? Tôi giật bắn người khi bất ngờ có
tiếng quát “Ai?’, mấy phút sau tôi mới b́nh tĩnh trở lại ấp úng trả lời câu hỏi
của đồng chí trực ban đại đội. May thay, sự trong sáng của ḿnh được minh chứng
bằng giọng đọc của anh Phạm Đông đang kết thúc chương tŕnh “Chuyện kể ở
đại đội”, lúc ấy mọi sự nghi vấn của đồng chí trực ban mới không c̣n.
Bữa đó, tôi phải khao đồng đội một chục điếu thuốc lá cuốn và một bi đông nước
chè móc câu, như thế cũng là quư lắm rồi. Thật là hú vía!
Lời bài thơ trong sách giáo khoa thủa
học tṛ về Đài Tiếng nói Việt Nam tôi c̣n nhớ măi:
“Lời Tổ quốc êm êm như
tiếng Má
Bên vành nôi
ru giấc ngủ êm thơ”
Dẫu rằng trên truyền h́nh phát nhiều
chương tŕnh, nhiều kênh với lượng thông tin ngày càng phong phú và đa dạng, đủ
để cho nhiều người thưởng thức và học có thể quên Đài, nhưng đối với tôi, nghê
đài vẫn là một thói quen, hay nói đúng hơn là một đam mê. Tôi nói không ngoa,
hiện nay tôi có đến 2 chiếc đài bán dẫn loại nhỏ, một chiếc luôn để ở đầu
giường và một chiếc bé xíu tôi luôn mang theo trong túi áo để thường xuyên được
nghe đài.
Những
kỷ niệm vui buồn của đời người th́ nhiều vô kể, nhưng có những kỷ niệm không
bao giờ quên về đài th́ tôi luôn nhớ măi không nguôi. Một vài ḍng ngắn ngủi,
đơn sơ này âu cũng là nỗi niềm và xin gửi ḷng biết ơn đến các anh, chị “Nhà
Đài”, mong sao Tiếng nói Việt Nam măi măi vang vọng trong mỗi trái tim của hơn
80 triệu người trên đất nước thân yêu của chúng ta. Hăy tin rằng những thính
giả như tôi vẫn hằng ngày say mê nghe và làm theo Đài nhiều lắm.
Đoạn bút này kính dâng lên Đài Tiếng
nói Việt Nam nhân dịp Đài kỷ niệm 60 năm Ngày truyền thống vẻ vang của ḿnh
|
Nguyễn Văn
Lai
|
CÂU HỎI CẦN
SỰ TRẢ LỜI
Tôi
là học viên của Trường sỹ quan “Đại Bác” mới ra trường với quân hàm thiếu úy
mới tinh. Tôi được điều về một Trung đoàn bộ binh đóng trên biên giới phía Bắc.
Là học sinh phổ thông vào học nên khi
ra trường tôi còn trả lắm. 21 tuổi được đeo quân hàm sỹ quan quân đội nhân dân
Việt Nam, tôi thấy oai lắm. Có phần nào hơn hẳn bạn bè cùng lứa. Được điều về
d4 hỏa lực của trung đoàn làm trung đội trưởng trung đội ĐKZ 82, tôi vui vẻ
nhận nhiệm vụ mà trong lòng đầy lo lắng, liệu có hoàn thành nhiệm vụ không đặc
biệt là nhiệm vụ huấn luyện. Bởi cái loại pháo ĐKZ này ở trường tôi đã được học
bao giờ đâu. Ở trường chúng tôi chủ yếu là học các loại pháo có xe kéo hay
những dàn hỏa tiễn hiện đại chứ cái loại pháo đo cùng này chỉ có nhắc đến hoặc
học lướt qua chứ có nắm được gì đâu. Tôi lo lắng thật sự. Sự lo lắng này tôi
vẫn dấu không dám nói với cấp trên. Bởi vậy cán bộ trung đoàn cũng tưởng rằng
học ở Trường pháo binh ra thì chúng tôi thành thục được hết tất cả các loại
pháo kể cả pháo đi cùng như cái anh ĐKZ này vậy thật là gay go và phức tạp khi
về đến đơn vị cũng là lúc đơn vị đang tiến hành huấn luyện để kết thúc giai
đoạn 2 và cũng là kết thúc năm huấn luyện 1990. Tôi được giao nhiệm vụ và bắt
tay vào huấn luyện ngay. Tôi tự cảm thấy mình có thể không hoàn thành được
nhiệm vụ huấn luyện lắm. Tôi lo lắng và đề nghị ct’ cho tôi chuẩn bị bài giảng
trong vài ba ngày. Được ct’ đồng ý tôi lao vào đọc tài liệu về loại súng ĐKZ 82
này. Kết hợp với sự theo dõi đồng chí đội huấn luyện và các khẩu đội luyện tập
dần dần tôi cũng nắm bắt được tính năng, cấu tạo cũng như thao tác súng pháo và
tôi bắt tay vào huấn luyện.
Tuy còn nhiều bỡ ngỡ nhưng do được rèn
luyện ở trường nhiều về các loại pháo nên tôi tiến hành huấn luyện cũng khá
trôi chảy mà lại có bài bản nữa. Đồng chí ct’ khen tôi. Cứ như vậy theo đà ấy
tôi vừa học vừa làm và huấn luyện trung đội tôi ngày càng có chất lượng, đặc
biệt là khâu huấn luyện cơ bản tôi chú trọng nhiều rèn luyện đơn vị thật thành
thục. Còn nội dung chỗ nào thiếu sót tôi bổ sung dần dần trong quá trình luyện
tập. Kết quả kiểm tra trong đại đội, trung đội tôi được điểm cao hơn và xếp thứ
nhất và là trung đội được chọn đi dự hội thao sư đoàn. Đ/c trung đoàn trưởng
trực tiếp đến giao nhiệm vụ cho tôi.
- Đồng chí Sơn - Trung đoàn giao nhiệm
vụ cho trung đội, đ/c ôn luyện thật tốt để đi hội thao sư đoàn về hỏa lực, cố
gắng phát huy để giành giải nhất trong hội thao góp phần tô thêm truyền thống
anh hùng của trung đoàn, đồng chí vỗ vai tôi động viên.
-
Dạ ! Báo cáo đại đội trưởng em sẽ cùng anh em cố gắng hết mức ạ. Trung đoàn
trưởng cứ yên tâm. Các loại pháo to còn khó chứ cái loại pháo nhỏ như ĐKZ này
chắc chắn trung đội em sẽ hoàn thành nhiệm vụ mà trung đoàn giao.
- Tốt ! Tốt. Chúng tôi tin tưởng vào
đồng chí !
Tiễn trung đoàn trưởng về rồi. Từ hôm
đó tôi cùng với trung đội tích cực luyện tập, tranh thủ mọi thời gian chuẩn bị
cho hội thao, nắm lại thật chắc cả phần lý thuyết và thực hành.
Thế rồi khi hội thao về kết quả thật
là mĩ mãn như ý muốn của mọi người. Trung
đội tôi đứng thứ nhất trong tất cả các trung đội tham gia hội thao. Tôi tự hào
lắm và tự nghĩ mình là sỹ quan trẻ vừa ra trường mà đã làm tốt được nhiệm vụ
huấn luyện lần này rồi thì sang mùa huấn luyện sau chắc chắn là nhàn lắm đây,
với loại pháo ĐKZ này không phức tạp lắm đâu. Vì vậy tôi cũng chẳng tìm hiểu
nhiều hơn về loại pháo này nữa.
Chưa
kịp “xả hơi” tôi lại được nhận nhiệm vụ tiếp. Trung đoàn giao cho tôi nhiệm vụ
huấn luyện về hỏa lực cho trung đội tự vệ của nông trường chè kết nghĩa với trung
đoàn. Tôi vui vẻ nhận nhiệm vụ và tin tưởng mình sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ
này. Tôi nghĩ huấn luyện cho tự vệ chắc không đòi hỏi tỷ mỷ và chu đáo như huấn
luyện cho bộ đội đâu mà sợ. Hơn nữa với loại pháo ĐKZ này tôi thành thạo lắm
rồi, hội thao nhất sư đoàn kia mà chắc căn cứ từ đấy nên trung đoàn mởi cử tôi
đi huấn luyện cho tự vệ. Tôi tự hào lắm chứ !
Ngày huấn luyện là một ngày đẹp trời.
Mùa đông nhưng không lạnh lắm. Tôi diện bộ K82 mới được phát chân đi giày da
mới cứng, đầu đội mũ mềm. Trên vai có đỏ rực đôi quân hàm thiếu úy mới bóc tem.
Trung đội tự vệ nông trường mà tôi huấn luyện hầu hết là nữ. Lúc tôi đến phút
đầu hết sức sững sỡ và ngượng ngùng đến khó chịu. Nhưng tôi vội vàng chấn chỉnh được ngay.
Mặc dù bên tai vẫn nghe tiếng xì xào của những cô gái như trêu tôi.
-
Ôi ! cán bộ gì mà trẻ thế.
-
Giáo viên mới toanh chúng mày ạ.
-
Anh này mới lắm, chắc mới về trung đoàn.
Thực
tình khi giảng tôi cũng có hơi run. Nhưng khi vào bài “Binh khí pháo ĐKZ” do sự
hứng khởi và sự nắm chắc nội dung bài của tôi nên tôi giảng trôi chày lắm. Cứ
như vậy toi giới thiệu hết phần binh khí của súng, tôi giới thiệu sang phần tác
dụng, tính năng, cấu tạo đạn cầm mô hình quả đạn ĐKZ lên vừa chỉ tôi vừa giới
thiệu. Đạn ĐKZ cấu tạo bên trong theo hình phễu để tập trung khí thuốc xuyên
thủy đốt cháy mục tiêu. Nó có thể tiêu diệt được xe tăng, xe bọc thép, tầu
xuồng, ca nô, máy bay đỗ tại chỗ lô cốt hầm ngầm của địch ...
Dưới
hàng tự vệ có nhiều tiếng xuýt xoa kinh ngạc.
-
Khiếp quá, pháo gì mà hiện đại thật.
- Thế này mà bắn vào người cháy thực, bắn vào xe
tăng thì chảy thành nước hết.
Tôi
vẫn tiếp tục giới thiệu tiếp bài, mọi người nhìn súng pháo và nhìn tôi tròn mắt
tiếp thu. Bài giảng về loại vũ khí hiện đại này, nhìn hàng quân tôi tự hào hơn
và lấy lại phong độ tự nhiên hẳn. Và bài giảng của tôi như có phần sinh động
hơn, tôi kết thúc phần giảng bài. Tôi hỏi mọi người xem có ý kiến gì không. Hỏi
thì hỏi thế nhưng tôi tự tính rằng chắc sẽ không có ý kiến gì. Nên tôi càng
nhấn mạnh “có ai ý kiến gì không ?. Bất ngờ một cánh tay của một cô gái trẻ giơ
lên xin ý kiến. Cô gái ngập ngừng đề nghị:
-
Xin đ/c bộ đội giáo viên cho em hỏi sao đạn ĐKZ em không thấy có vỏ đạn như
pháo phòng không 37 ly các em được học. Câu hỏi bất ngờ làm tôi lùng túng thực
sự. Một phút mất bình tĩnh tôi không ngờ câu hỏi hết sức bình thường mà lại bí
đối với tôi như vậy. Vội vàng lấy lại bình tĩnh, tôi trở lại vị trí của mình.
Còn đồng chí nào hỏi gì nữa không ?
-
Hết, hết các cô gái trả lời. Tôi bắt đầu gỡ bí cho mình.
- Câu hỏi của em, à xin lỗi của đ/c
rất tốt nhưng là câu hỏi cần được giải thích thật cụ thể thì các đồng chí mới
rõ được. Vì vậy ngày mai sang bài động tác thu dùng pháo tôi sẽ trả lời cụ thể
tỷ mỉ còn hôm nay thời gian còn lại chúng ta triển khai ôn luyện theo nội dung
được học, yêu cầu học đến đâu nắm chắc đến đó. Có gì chưa hiểu tổng hợp hỏi
giáo viên vào đầu giờ ngày mai.
Xong
buổi học đầu ra về lòng tôi nặng chĩu. Mình chưa đáp ứng được bài giảng. Tưởng
rằng là tốt đẹp nhưng thực tế thì ngược lại. Câu hỏi của cô gái tự vệ môi
trường bản thân tôi hiện tại chưa thể trả lời được phải xem lại tài liệu, hỏi
thêm cán bộ có kinh nghiệm mới giải quyết được đây. Vừa đi tôi vừa suy nghĩ,
chỉ có tối hôm nay phải tìm cho ra câu hỏi này. Tưởng rằng như đơn giản nhưng
đâu phải thế. Đúng thật các loại pháo khác có vỏ đạn riêng ĐKZ, B40 lại không
có vỏ đạn, điều này là hiển nhiên rồi nhưng giải thích ra sao đó mới là điều
cần thiết.
Tôi
lên hỏi đồng chí đại đội trưởng thì đồng chí đại đội trưởng cũng chỉ trả lời
chung chung mà chưa giải thích được bởi vì rằng đồng chí đại đội trưởng trưởng
thành từ chiến sỹ lên chưa qua trường lớp nào nên sự trả lời cho rõ ràng câu
hỏi đó là khó khăn. Bởi vậy, chỉ có tôi vì tôi qua trường cơ bản lại có kiến
thức về pháo. Lẽ nào tôi chỉ trả lời chung chung thôi à, phải nghiên cứu tỷ mỉ
và trả lời cặn kẽ để các cô tự vệ hiểu.
Tôi xem lại tài liệu cũng chẳng thấy nói gì hơn
sov ới những gì tôi đã truyền đạt cho bộ đội và tự vệ. Tôi lục lại trí nhớ của
mình và tự so sánh giữa những khẩu pháo tôi đã được học và loại pháo ĐKZ 82
này. À đây rồi có lẽ là như thế này đây. Các loại pháo lớn là loại pháo có rãnh
xoắn khi đạn bắn đi, đầu đạn chuyển động trong nòng pháo bởi có rãnh xoắn và
tác dụng của nòng pháo, định hướng bay cho đầu đạn làm cho đầu đạn quay quanh
trục của nó. Riêng loại pháo ĐKZ là loại pháo nòng trơn khi bắn dùng phản lực
của khí thuốc phát ra phía sau, đẩy đạn bay về phía trước nên cấu tạo đạn phải
như vậy, không có vỏ đạn mà có ống thuốc phóng, phải có cánh đuôi để ổn định
đường bay của đạn. Nhìn chung, các loại pháo nòng tròn đều phải có cánh đuôi và
ống thuốc phóng mà không có vỏ đạn. Tôi lập luận như vậy và tự bằng lòng với sự
giải thích của mình.
Ngày
hôm sau tôi trả lời và giải thích với trung đội tự vệ như vậy, tôi vững tin hơn
cho phần giới thiệu tiếp theo của bài giảng.
Từ hôm đó tôi nghĩ rằng đứng bao giờ chủ quan
trước một vấn đề gì dù là nó đơn giản hay phức tạp. Muốn làm một cái gì phải có
sự chuẩn bị chu đáo, tỷ mỉ, có nghiên cứu đặc biệt là trong huấn luyện quân sự
càng phải chu đáo tập trung hơn. Chính những cô gái tự vệ nông trường đã dạy
cho tôi một bài học thấm thía và thiết thực trong đời sỹ quan trẻ của tôi. Tôi
còn phải học nhiều hơn nữa, không những học trong Nhà trường mà học cả ở những
người chiến sỹ bình thường.
SAU LẦN ĐI THỰC TẬP
Tôi
là học viên năm thứ 3 học chuyên ngành Bộ binh cơ giới. Mùa xuân năm ấy chúng
tôi nhận lệnh đi thực tập tại một sư đoàn bộ binh cơ giới, hành trang ra đi của
chúng tôi là toàn bộ những kiến thức đã được học ở trường. Sau gần 3 năm học
những kiến thức mà tôi thu lượm được đủ tạm để chỉ huy 1 trung đội Bộ binh cơ
giới xe 5MP. Bởi vậy chúng tôi phấn khởi lên đường.
Đến đơn vị thực tập tôi được phân công về đơn vị
cơ sở đúng theo cương vị và ngành học. Sau khi giao nhiệm vụ cho tôi, đồng chí
Đại đội trưởng nơi tôi thực tập nói:
Trong thời gian thực tập ở đơn vị này Thành sẽ
được điều về trung đội 3, ở đây có trung úy Bình là trung đội trưởng nhưng hiện
nay đ/c Bình được cấp trên điều đi công tác khoảng 1 thời gian nên thiếu bt’
chính thức. Thành về đấy nhanh chóng nắm đơn vị và tổ chức huấn luyện quản lý
đơn vị cho tốt. Tất nhiên sẽ gặp những khó khăn nhất định, nhưng chỉ huy Đại
đội sẽ theo dõi và giúp đỡ thêm, có gì khó khăn đồng chí cứ mạnh dạn đề xuất.
Đặc biệt là tới đây đơn vị sẽ diễn tập nên phải chuẩn bị cho chu đáo. Tôi vui
vẻ nhận lời nhưng không khỏi lo lắng, làm sao đây để chỉ huy trung đội hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ thường xuyên và trong diễn tập. Nhất là ở 1 trung
đội mà lại không có trung đội trưởng chính thức.
Về
đến trung đội, tôi đem hết khả năng của mình để chỉ huy quản lý đơn vị. Đồng
thời tranh thủ thời gian nắm lại những kiến thức đã được học mà vận dụng cho
suôn sẻ. Do có cố gắng nên công việc có nhiều chiều hướng tốt đẹp. Tôi nghĩ cứ
thế này có lẽ 3 tháng thực tập tôi sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ mà thôi, bởi
trong huấn luyện tôi đã tổ chức huấn luyện tốt cả về kỹ thuật và chiến thuật
bằng chứng là đ/c Đại đội trưởng có lần kiểm tra tôi huấn luyện đã khen “Đ/c
Thành huấn luyện tốt nắm chắc nội dung, có phương pháp khá”.
Cuối
giai đoạn huấn luyện cấp trên tổ chức diễn tập chiến đấu tấn công. Mọi bước tổ
chức diễn tập cơ bản giống như ở trường mà tôi được học. Có công tác chuẩn bị,
có trinh sát địa hình, đường cơ động ... Khi đi trinh sát đường cơ động từ vị
trí xuất phát xung phong đến khu vực phòng ngự của địch ở cao điểm 53, ở trung
đội 3 của tôi tương đối thuận lợi. Đến một khu đồi thấp tương đối bằng phẳng,
có lẽ dân mới cày lên chưa kịp trồng hoa mầu gì nên tiện triển khai đội hình
xe. Nắm được như vậy nên tôi yên trí về chuẩn bị các mặt khác cho trung đội để
3 ngày sau đơn vị sẽ thực hành tổ chức tiến công.
Thật
là tai hại ngày ngày thứ 2 đơn vị tiến hành tập tổng hợp có bắn đạn thật. Sáng
sớm hôm đó, xe chúng tôi tiếp cận đến vị trí xuất phát xung phong thì đường cơ
động của các xe trong trung đội phía trước bãi đất bằng phẳng ấy bây giờ là cả
1 ruộng lạc và ngô đang lên mơn mởn của dân đã trồng, mà xe của trung đội tôi
phải vượt qua. Gay quá nhỉ nếu vòng bên phải thì phương suối xe không qua được,
nếu vòng bên trái thì sang phạm vi trung đội bạn đồng thời lại xa không kịp
thời gian nổ súng. Tôi đang đắn đo suy nghĩ có cho xe vượt qua hoa mầu của dân
hay là không, thì có 2 bác nông dân ra phía trước đội hình ngăn không cho xe
vượt qua ruộng mầu của họ. Mà thời gian xuất phát xung phong sắp đến, thấy bí
tôi nói liều với họ:
-
2 bác tránh ra cho xe chúng tôi làm nhiệm vụ.
-
Xe các chú không được đi qua ruộng mầu của chúng tôi, muốn qua thì đi đường
khác.
-
Chúng tôi đang diễn tập, việc quân sự dỡ nhà cũng phải dỡ chứ hoa màu là gì ? -
Tôi xẳng giọng.
-
Chúng tôi không cho đi qua. Bây giờ là thời bình chứ có phải chiến tranh đâu
làm gì có giặc giã mà phá hoại sản xuất, làm gì cũng phải nghiên cứu chứ. Hoa
màu của dân là mồ hôi nước mắt chứ, cứ phá bừa mà được à ! Sao không báo trước
cho chúng tôi.
Gay
go quá, tôi vừa nhảy ra khỏi xe để định gặp xin ý kiến Đại đội trưởng may thay
lúc ấy anh đã có mặt cả với đ/c phó chính trị đại đội. Cả 3 chúng tôi tiến lại
chỗ 2 bác nông dân.
-
Trước hết chúng cháu xin lỗi 2 bác và bà con vì không thông báo kịp thời nên
mới có cơ sự này, mong các bác thông cảm. Hôm trước đi trinh sát các cháu vẫn
chưa thấy có hoa màu gì trên quả đồi này nên mới xác định đi cho xe qua ruộng
mầu này. Nhưng nay vì nhiệm vụ gấp nên 2 bác cứ cho xe chúng cháu đi qua sau đó
chúng cháu sẽ đền bù có thể bằng tiền hoặc chúng cháu trồng lại cẩn thân mầu
cho các bác ở những chỗ hư hỏng.
-
Có thế chứ nói như chú thì được. Vì nhiệm vụ của các chú chúng tôi có tiếc gì
nhưng cái gì cũng phải cẩn thận tỷ mỉ chu đáo. Bây giờ các chú cứ cho xe qua đi
rồi hôm sau chúng tôi sẽ nói chuyện.
Cùng
lúc đó tín hiệu xung phong của cấp trên phát ra, chúng tôi nhanh chóng nổ máy
xe vượt qua ruộng màu và tiến hành xung phong đánh chiếm trận địa địch đúng giờ
quy định ... và cuộc cuộc diễn tập cũng hoàn thành suôn sẻ.
Sáng
hôm sau tôi cùng với Đại đội trưởng mang tiền đến nhà bác nông dân để xin được
đền bù thiệt hại. Bác mời 2 chúng tôi vào nhà, rót nước mời chúng tôi uống và
nói:
-
Các chú tập xong rồi à ! đã rút về đơn vị chưa.
-
Rồi ạ ! Chúng tôi trả lời - Thưa bác hôm nay chúng cháu đến để mong bác thông
cảm và bác xem thiệt hại hoa màu thế nào chúng cháu xin trả, có thể bằng tiền
hoặc công bộ đội, nếu cần phải trồng lại chúng cháu sẽ mua giống trồng lại cho
bác.
-
Thôi mà ! Hôm trước nói thế để các chú rút kinh nghiệm đã làm sai thì phải ăn
nói tử tế với dân chứ, nếu được đồng ý thì mình mới làm cách gì đi nữa thì cũng
phải vì dân chứ. Bác vừa nói vừa nhìn mặt tôi, nhưng mà thôi sáng nay bác gái
và các em đã trồng lại hết rồi các chú không phải trả gì hết.
Tôi
ngượng ngùng hết nỗi. Mặt tôi đỏ bừng và chỉ biết mong bác thông cảm cho tôi.
Chúng tôi hết sức cảm ơn bác, chuyện trò đã xong chúng tôi ra về. Chuyện ấy Đại
đội trưởng cũng không nhắc lại nữa, anh chỉ nói lần sau nhớ phải cụ thể hơn,
người chỉ huy phân đội phải sâu sát trong huấn luyện nhất là trinh sát cái gì
cũng phải nhìn tận mắt sờ tận tay, không được chủ quan.
Tôi
chân thành nhận khuyết điểm với anh, bởi tôi không sâu sát khi đi trinh sát ở
xa thấy quả đồi bằng phẳng chưa có hoa màu gì, ai ngờ dân đã trồng lạc, trồng
ngô nhưng chưa mọc đấy lẽ tôi phải đến gần xem xét cụ thể nếu thấy khó khăn
phải tìm biện pháp giải quyết hoặc đề xuất cấp trên mới phải. Bài học này thấm
thía suốt đời lính của tôi mãi mãi. Về trường tôi sẽ chẳng dám nói với ai
chuyện ấy, song tôi tự răn mình nếu trở thành người sỹ quan rồi thì đừng để
trường hợp tương tự xảy ra. Bởi tôi đang học để trở thành người chỉ huy.
MỘT CHUYẾN ĐI XA
Ngày
ấy, trung đội tôi nhận nhiệm vụ đi làm kinh tế cho Nhà trường.
Đ/c
Đại đội trưởng gọi tôi lên giao nhiệm vụ:
-
Đại đội 3 chúng ta trong tháng này đi làm kinh tế theo kế hoạch của Nhà trường,
thời gian là 30 ngày. Trung đội 7 đồng chí có nhiệm vụ đi làm than tại Quảng
Ninh, còn trung đội 8, 9 đi đóng gạch ở Đồng Lác. Thời gian đi là sáng ngày
kia. Đồng chí về làm công tác chuẩn bị và quán triệt cho đơn vị rõ nhiệm vụ.
Sau khi nghe anh phổ biến những quy định trong lao động làm kinh tế, ý nghĩa,
mục đích, yêu cầu của đợt lao động này. Lòng tôi phấn khởi lạ thường tuy nhiệm
vụ nặng nề thật đấy nhưng chúng tôi sẽ được đi xa, sẽ được đến Quảng Ninh một
vùng biển giàu có của Tổ quốc.
Tối
hôm ấy tôi tổ chức sinh hoạt trung đội, quán triệt mục đích yêu cầu, ý nghĩa và
xây dựng quyết tâm trong trung đội. Ai nấy đều phấn khởi ra mặt, mọi học viên
trong trung đội thảo luận sôi nổi.
-
Chuyến này thì chúng mình được thấy biển rồi nhé, tha hồ mà ngắm.
-
Đi Quảng Ninh sẽ được thăm mỏ than, sẽ biến bãi cháy, cửa ông mở rộng tầm nhìn
đấy các bạn a.
-
Con gái thợ mở đẹp cực kỳ nhé, gần than nhưng mà da trắng phải biết. Mọi người
bàn ra tán vào.
- Ôi dào ! Đi làm kinh tế, đi lao động chứ có phải
đi du lịch đâu mà mơ mộng thế. Tiếng 1 cậu học viên tranh luận.
-
Đi lao động nhưng được đi xa, được ra biển chứ không phải cứ loanh quanh ở Đồng
Doi, Đồng Lác toàn núi đồi đến phát chán - 1 cậu khác trả lời cả trung đội ồn
ào phấn chấn. Ai nấy tranh nhau nói và mỗi cậu đều nghĩ đến 1 vùng đất mới lạ
mà họ chưa hề đặt chân tới. Sau những phút ồn ào tôi kết luận: Đi lao động làm
kinh tế lần này nhiệm vụ trước hết là phải hoàn thành khối lượng, đạt và vượt
năng suất. Bảo đảm an toàn tuyệt đối, chấp hành tốt công tác dân vận, quan hệ
tốt với anh em công nhân, thực hiện “đi dân nhớ, ở dân thương” đảm bảo giữ
nghiêm kỷ luật, phát huy truyền thống Nhà trường ...
-
Chúng ta có nhất trí chấp hành tốt các quy định như vậy không ! Tôi hỏi - Nhất trí ! ... mọi người đồng thanh trả
lời.
Tôi
cho anh em học viên nghỉ sinh hoạt trong lòng thấy yên tâm về chuyện đi sắp
tới. Vì trung đội 7 chúng tôi có truyền thống kỷ luật nghiêm, học tập tốt và
hiện nay đang dẫn đầu đại đội. Trước khi đi lao động xa lại có sự nhất trí cao
như vậy tôi lại càng thấy vững tâm hơn.
Chiếc
xe gát không mui chở chúng tôi hành quân từ trưa xe chạy qua Hà Nội - Bắc Ninh
và trên đường đến Quảng Ninh trên xe hơn 30 học viên và nào xoong, nồi gạo muối
... 1 xe chật ních, người nào cùng thấy tươi tỉnh và tán chuyện ra trò.
-
Cậu Thuận ở tiểu đội 1 nói: Đất nước mình đẹp quá càng đi xa càng thấy đẹp mà
thích anh Đỗ Thanh nhỉ ?
-
Cậu Sáng đề nghị với tôi: Trung đội trưởng Đỗ Thanh ơi ! ra mỏ chủ nhật được
nghỉ cho em đi tắm biển nhé.
-
Rồi Huân, Dũng, Toàn, Thảo cũng với xin theo: cho em đi với nhé. Mọi người ồn
ào cả lên ai cũng xin tôi khi được nghỉ chủ nhật cho đi tắm biển, đi chơi thăm
các thắng cảnh quanh vùng lao động.
Tôi
nhìn học viên của mình bằng ánh mắt cảm thông và nói: Miễn là các cậu hoàn
thành nhiệm vụ năng suất cao, rồi mình sẽ nghiên cứu.
Tối
hôm đó xe đến mỏ đã muộn lắm rồi, trời rét lại có mưa phùn. Chúng tôi xuống xe
khênh gạo và thực phẩm vào nhà bác công nhân nơi liên hệ đặt bếp ăn, sau đó
trực tiếp tôi đi mượn nhà cho học viên tạm nghỉ qua đêm ngày mai sẽ tính sau:
Khi
xong các công việc và cắt người gác xe thì cũng đã 1 giờ sáng, nhưng anh em chúng
tôi cũng đã được sự giúp đỡ đùm bọc của các gia đình công nhân của mỏ. Một ngày
đêm vất vả qua đi.
Trung
đội tôi được sự hướng dẫn của đồng chí Đại úy trợ lý Ban kinh tế Nhà trường và
kỹ thuật viên của mỏ. Năng suất ngày công lao động ngày càng cao, công việc của
chúng tôi là chọn than kíp lê ra khỏi đống than nhiều loại. Lao động thật là
vất vả nhưng ai nấy đều hăng say làm việc, khí thế sôi nổi thi đua trong cả
trung đội thật là cao, ai cũng muốn vượt năng suất để đến cuối tuần được bình
xét xuất sắc và được đi chơi ngày chủ nhật. Vì quân số đi chơi tôi quy định
theo 1 tỷ lệ nhất định. Trung đội làm nhiệm vụ độc lập, do đó mọi vấn đề tôi tự
quyết định tất cả “quyền của tôi” to lắm, do đó sau này tôi mới ân hận mãi vì
cái “quyền” của mình.
Sau
mỗi buổi làm việc anh em chúng tôi trở về nhà trọ (ở trong các gia đình công
nhân của mỏ). Sau khi tắm rửa các học viên tham gia vệ sinh nhà cửa và giúp đỡ
các việc vặt trong gia đình nên các gia đình công nhân quý chúng tôi lắm. Họ
giúp đỡ chúng tôi tất cả những cái gì có thể giúp được, nào là quang gánh, rổ
rá, xoong nồi, bát đĩa, thậm chí cả xà phòng. Tình cảm đó bền vững cho đến hết
đợt lao động của chúng tôi.
Thế
là 1 tháng lao động cũng đã hết. Học viên trong trung đội ai nấy đều mệt mỏi.
Sự ước ao được đến vùng biển, được đi thăm danh lam thắng cảnh khu mỏ chưa mỹ
mãn, chỉ có 1 số người lao động xuất sắc mà các tuần bình bầu ở các tiểu đội
đạt được là được đi chơi nửa ngày trong các hôm chủ nhật mà thôi, còn lại đa số
học viên kể cả tôi chưa được đi chơi ra biển. Vì vậy ai cũng muốn được đi chơi.
Tôi quyết định còn 1 ngày cuối cùng cho đơn vị nghỉ ngơi chờ xe xuống đón về
trường cho anh em đi chơi hết buổi sáng hôm đó.
Tôi
gọi các đ/c tiểu đội trưởng lên và nói hôm nay các đ/c về cho anh em đi chơi
đến 12h 00 có mặt. 1h 00 ăn cơm xong sẵn sàng chờ xe đơn vị lên đón trở về
trường, mấy tiểu đội trưởng phấn khởi nhanh chóng tản đi.
Vì
chúng tôi tổ chức chia tay bà con anh em công nhân từ tối hôm trước do đó tôi
cũng quyết định sáng nay đi cửa ông chơi và thăm người bạn cùng học, ở trưởng
về công tác ở đây.
Sau
khi gặp bạn xong tôi lững thững ra chợ Cửa Ông đi dạo và mua một vài thứ cần
thiết.
Tôi
đang mua 1 bao thuốc lá thì thấy 1 chị công nhân nói với tôi:
-
Chú bộ đội ở đơn vị nào mà còn ở đây.
-
Tôi ở Trường sỹ quan đi lao động ở mỏ hôm nay là ngày nghỉ nên đi chợ. Tôi trả
lời.
-
Chú về đi, ở mỏ có bộ đội xô sát với một số người làm hiệp đồng của mỏ đấy.
-
Thế à ! chị để tôi về xem thế nào. nói thế nhưng tôi nghĩ: thiếu gì bộ đội lao
động ở mỏ chứ đâu phải mình đơn vị tôi và cứ thế cho đến 12h kém 15’ tôi mới
quay về khu mỏ.
Tôi kinh ngạc và lo lắng khi thấy mấy học viên hốt
hoảng chạy đến tìm tôi.
-
Báo cáo trung đội trưởng, đồng chí Thuận vừa bị thanh niên gây thương tích nhẹ.
Tôi
lạnh cả người vội chạy về nhà bác Thoa mà đồng chí Thuận ở, mọi người còn đông
đủ. Có cả đồng chí giám đốc mỏ, đ/c thư ký công đoàn mỏ và đông đảo bà con công
nhân, ai cũng nhìn tôi vừa trách móc vừa thông cảm.
- Sự việc là thế này- đồng chí giám đốc đưa ra tờ
biên bản và kể lại cho tôi nghe.
Học
viên trong đơn vị của tôi xô sát với một số thanh niên làm hiệp đồng của mỏ ở
chợ, sau đó đám thanh niên trên kéo đến bao vây nhà đồng chí Thuận ở, định xông
vào đánh bộ đội.
Gia
đình các bác công nhân kiên quyết phản đối hành động đó nhưng nhóm người kia
vẫn cứ đe dọa mấy đồng chí ở nhà bác Thoa. Vì không có chỉ huy ở nhà, do đó
Thuận phải ra “đàm phán” với nhóm thanh niên trên. Nhưng khi biết Thuận là học
viên thì 1 thanh niên bất ngờ xông vào đánh Thuận. Không muốn chuyện nhỏ xé ra
to, Thuận cố né tránh đòn tấn công của thanh
niên, nhưng vẫn bị một vết thương nhỏ vào 1 bên tai làm chảy máu. Tự vệ mỏ và
bà con công nhân cũng vừa tới kịp để bắt số người kia và đưa Thuận đi băng bó.
Tôi
lặng người đi và ấp úng xin lỗi giám đốc, bà con công nhân mỏ vì sự thiếu sót
của mình và sự vi phạm kỷ luật của đơn vị mình.
Một
tiếng sau xe của đơn vị xuống đón, có cả đồng chí Bình phó chính trị đại đội.
Tôi vội báo cáo lại với anh và nhận khuyết điểm.
Anh
Bình nói với tôi: cậu đưa trung đội theo xe về còn mình cùng với 1 học viên nữa
ở lại giải quyết vụ việc và chăm sóc Thuận.
Lên
xe mà tôi cứ áy náy mãi mặc dù các bác, các chị công nhân ra tiễn chúng tôi rất
lưu luyến, có người còn khóc trong sự chia tay với chúng tôi.
Đấy là một bài học thấm thía. Nếu tôi mà không chủ
quan thì sự việc không xảy ra như vậy. Nếu như có mặt tôi hôm đó? Nếu như tôi
không đi chơi ? Hoặc cho anh em đi chơi mà có tổ chức thì hậu quả tai hại kia
có lẽ không xảy ra hoặc có xảy ra thì cũng có phương pháp giải quyết không để
xảy ra nghiêm trọng như vậy !
Sau
đợt lao động ấy, tuy năng suất rất cao nhưng trung đội tôi không hoàn thành
nhiệm vụ, những học viên tham gia vụ xô sát đó phải trả về địa phương (trừ đ/c
Thuận). Riêng tôi kết quả bình xét Đảng viên cuối năm chỉ đạt đảng viên đủ tư
cách ở mức 3 và tai hại hơn là đợt tăng quân hàm sỹ quan năm đó danh sách không
có tên tôi.
Điều
tai hại lớn hơn nữa là Ban giám đốc mỏ quyết định đình chỉ hợp đồng lao động
kinh tế làm than giữa trường và mỏ. Một đại đội khác trong Nhà trường xuống
thay vị trí lao động của trung đội, tôi lại phải buồn bã lên xe quay về, chỉ vì
những khuyết điểm của đơn vị tôi mà Nhà trường mất bao nhiêu công sức kể cả
đồng chí Hiệu trưởng cũng phải đến mỏ để giải quyết hậu quả do chúng tôi gây
ra.
Thật
là thấm thía, đó là bài học của công tác chỉ huy đơn vị của tôi mà tôi vẫn còn
nhớ mãi.
Nguyễn Văn Lai
TÌNH YÊU SAU
PHIÊN GÁC
Nguyễn Văn Lai
Tôi vốn dút dát và cả nể, không hiểu
dun dủi thế nào mà sau khi kết thúc khóa huấn luyện chiến sỹ mới tôi lại được
điều về Đại đội Vệ binh của Nhà trường làm nhiệm vụ canh gác thật là vất vả và
căng thẳng, nhiệm vụ chính của chúng tôi là bảo vệ an toàn tuyệt đối cho Nhà
trường. Đặc biệt là khu vực cổng chính để duy trì nghiêm điều lệnh, điều lệ,
chỉnh đốn tác phong, mang mạc của mọi quân nhân ra vào doanh trại. Những ngày
đầu khó chịu làm sao, tôi chẳng thích thú chút nào, mặc dù đã được cấp trên
quán triệt và động viên nhiều.
Từ nhỏ cho đến khi học xong phổ thông
trung học nào tôi đã phải thức khuya, dậy sớm gì, canh gác lại càng không. Bởi
vậy, những giờ gác dù là ban ngày hay ban đêm tôi đều khó chịu cả. Nhưng là
chiến sỹ tôi phải thực hành nhiệm vụ theo sự phân công của cấp trên một cách
miễn cưỡng. Nhớ lại những ngày đầu khi mới về đại đội nghe tiểu đội trưởng gọi
tên:
-
Phạm Khắc Canh đi gác ca đầu.
Tôi
giật thót người khi nghe tiếng gọi đến tên mình và tiếng cười ngặt nghẽo của
một vài chiến sỹ cũ.
-
Canh lại gác rồi - Họ cười và trêu tôi như vậy. ấy thế mà đến bây giờ tôi lại
thấy mến cái “binh chủng canh gác” này kia ché, cũng chẳng hiểu vì đâu?.
Vào
một buổi trưa khi tôi đang đứng gác và mải mê theo đuổi những ý nghĩ không đâu
vào đâu. Vì giữa trưa người qua lại cổng gác rất ít, hầu như không có. Tôi ngắm
đất, ngắm trời súng cầm tay tha thẩn đi quanh vọng gác. Bỗng trên con đường từ
thôn Phúc phía trước mặt có những cô gái quang gánh trên vai đi về phía mục
tiêu tôi canh gác. Đến gần hóa ra là 3 cô gái còn rất trẻ mà lại đẹp nữa.
-
Chào anh Canh. Chúng em biết anh rồi mà anh chắc là chưa biết chúng em đâu nhỉ
? Anh mới được điều về làm vệ binh à ?
Tôi
chưa biết trả lời ra sao thì 1 trong 3 cô nói tiếp.
-
Hôm nay lính mới gác có khác, oách thật ! Chúng em muôn đề nghị anh cho chúng
em vào bên trong trường cắt cỏ nhé.
-
Không được. Tôi rất khoát trả lời - Đây là doanh trại bộ đội chứ có phải là
đồng cỏ hoang đâu ?
Tôi vừa nói vừa nhìn vào các cô gái và
nhìn vào trong hàng rào, đúng là cỏ ở
đây tốt thật. Trong doanh trại bộ đội, nhân dân khó được vào cắt cỏ, trâu bò chẳng
dám vượt qua nên cỏ tốt hơn hẳn bên ngoài. Bây giờ tôi mới để ý đến điều đó.
Một
cô gái áo hoa tiến lại gần vọng gác trên vai vẫn mang đôi quanh gánh tòng teng.
-
Buổi trưa các Thủ trưởng đi ngủ cả, không ai kiểm tra, anh cho chúng em vào cắt
cỏ một lúc. Cỏ tốt cắt nhanh lắm anh ạ, xong chúng em ra ngay mà ?
-
Làm sao tôi có thể cho các cô vào doanh trại được chứ, Thủ trưởng tôi đã quán
triệt rồi không cho bất cứ người lạ vào doanh trại.
-
Thanh niên gì mà khó tính thế ? Một cô gái nói - chúng em không thích những
người khó tính đâu ?
Tôi
đỏ mặt thẹn thùng, lòng thấy nguôi nguôi nhưng miệng vẫn nói cứng.
-
Không được đâu, xin mời các cô cứ cắt cỏ ở đây nhưng ở ngoài hàng rào là được.
-
Ngoài hàng rào nói mà làm gì ? Về thôi Thủy ơi. Tiếng một cô gái gọi và cô áo
hoa trả lời.
-
Ừ thì về lính mới mà khó thật !
Tôi
nhìn các cô gái quay đi mà lòng đầy bối rối, vội quay nhìn vào trong doanh
trại. Buổi trưa im ắng lạ thường, không có một bóng người nào đi lại.
Quay
lại tôi vội gọi theo các cô gái:
-
Này có cắt thì nhanh lên vào đi, tôi chỉ giải quyết lần này thôi nhé. Có lẽ
tính cả nể của tôi bùng phát hay là “bệnh sỹ” đây. Bởi vậy chỉ một loáng 3 cô
gái đã đi qua cổng gác nơi tôi đang làm nhiệm vụ và tiếng cắt cỏ rào rào nghe
vui tai đáo để.
Tôi
sách súng đi loanh quanh vọng gác và nơi 3 cô gái cắt cỏ, mắt luôn luôn quan
sát xem có Thủ trưởng nào đi kiểm tra không.
Thật
là rủi thay khi các cô gái mới cắt được một nửa gánh cỏ thì đồng chí sỹ quan
trực ban trưởng Nhà trường đi kiểm tra phát hiện thấy các cô gái đang cắt cỏ ở
vọng gác nơi tôi gác. Đồng chí lệnh cho tôi phải đưa 3 cô gái ra khỏi hàng rào
mà không cho cắt cỏ nữa và sau đó chắc là các đồng chí cũng biết là điều gì xảy
ra với tôi. Có điều qua ánh mắt tôi biết các cô gái nghe chừng thông cảm với
tôi lắm.
Chiều
hôm đó, tất nhiên là tôi phải viết bản kiểm điểm và chịu trách nhiệm trước việc
mình làm.
Thế
rồi, nhân dịp kỷ niệm ngày truyền thống Nhà trường 15/4 Liên chi đoàn vệ binh
chúng tôi kết nghĩa với chi đoàn địa phương tổ chức giao lưu văn nghệ và dạ
hội. Buổi dạ hội được tổ chức tại sân kho của chi đoàn địa phương. Trong giao
lưu văn nghệ và dạ hội tình cảm quân dân càng thêm đậm đà, nồng ấm, thắm tình
cá nước. Dạ hội có nhảy các điệu vũ mà chúng tôi đã từng được tập chỉ khác là
hôm nay có cả các bạn gái của thanh niên địa phương. Trong danh sách dạ hội
từng đôi một, cứ một chiến sỹ nhảy với một cô thanh niên. Tôi thấy có tên tôi
và một cô gái tên Thủy nào đó. Canh - Thủy.
Lòng
phấn khởi lạ thường suốt ngày hôm đó trong đại đội ai cũng náo nức chờ đến tôi.
Tôi cố hình dung ra một cô Thủy vừa đẹp, vừa sinh lại vừa nhảy đẹp. Khi đi lại
tôi vẫn thầm ôn những động tác nhảy mà các anh cán bộ đoàn trong đơn vị đã dạy
cho tôi, chỉ sợ rằng khi nhảy thua các cô gái thì xấu hổ lắm.
Thế
rồi buổi tối cũng đã đến. Chúng tôi diện những bộ quần áo mới nhất, gọn gàng và
chỉnh tề hành quân ra thôn Phúc. Trên sân kho giữa làng, ánh điện được kéo ra
sáng chói. Tiếng nhạc được phát ra từ những chiếc loa thùng nghe nhộn nhàng, âm
vang. Công tác tổ chức được chuẩn bị chu đáo bởi có sự hiệp đồng giữa 2 tổ chức
đoàn kết nghĩa.
Buổi
dạ hội bắt đầu, tôi tìm đến cô Thủy thì bắt gặp một khuôn mặt thân quen và ánh
mắt gần gũi. Thôi đúng rồi ! Thủy cô gái mặc áo hoa cắt cỏ hôm nào. Thế này thì
khó sử thật. Bỏ cuộc ư ? Không được ! Tôi đành nắm tay Thủy cùng bước những
bước nhảy dịu dàng của một điệu và quen thuộc. Ánh mắt em nhìn tôi tin tưởng và
khóe miệng cứ cười cười như muốn trêu tôi. Tôi cố tình làm ngơ như chưa hề gặp
Thủy. Chờ mãi không thấy tôi bắt chuyện trước, cô gái vội nhỏ nhẹ lên tiếng,
giọng như hờn dỗi xa xăm.
-
Anh Canh có nhận ra em không ?
-
Có ... à không ! Hôm nay tôi mới gặp em.
-
Anh nói dối ! nhưng anh đừng giận chúng em nhé, em là một trong ba cô gái cắt
cỏ hôm trước đã làm phiền anh đó thôi, anh có nhớ cô gái mặc áo hoa hôm đó
không ? Chính là em đấy nhưng là lính mới ai lại nhớ chuyện buồn dai kia chứ
phải không. Hôm nay, gặp anh em nhận ra liền và rất thích nhưng cứ để xem anh
có nhận ra em không ?
-
Em đẹp lắm ! Bất giác tôi buột miệng nói câu ấy.
à
... mà em hôm ấy có giận anh không ? Thôi thế là hòa Thủy nhé.
- Không được hòa ! em bắt đền anh đấy. Sau dạ hội
mời anh vào nhà em chơi.
-
Để xem đã, anh thử xin phép Thủ trưởng xem có được không. Tôi mạnh dạn trả lời
và lúc này mới có dịp nhìn Thủy kỹ hơn. Đúng là em đẹp thật, đôi mắt bồ câu có
duyên sao mà nó đen tròn ngơ ngác, cái mũi dọc dừa, cái miệng cười tươi như một
đóa hoa, một khuôn mặt trái xoan trắng hồng mà đẹp một cách dịu dàng. Ai dám
bảo nữ diễn viên điện ảnh đẹp hơn nào. Không ? tôi cho là không thể dưới con
mắt của tôi lúc này Thủy cô gái của thôn Phúc đang nhảy với tôi có lẽ là đẹp
nhất vậy. Cái tuổi 17 của em sao mà đẹp, ngây thơ, khỏe mạnh, tràn đầy sức
sống, lòng tôi trũng xuống. Từ khi lớn lên đến khi vào bộ đội tôi đã được yêu
ai đâu, cả đến cái nắm tay một cô bạn gái cũng chưa từng có.
Hôm
nay nắm tay Thủy tôi thấy như có một cái gì đó cứ lâng lâng. Hơi ấm ư ! cũng có
thể và một cái gì đó nó còn hơn tất cả cứ như muốn kéo tôi vào sát hơn, sát hơn
nữa với Thủy, còn Thủy cũng nhận thấy tâm trạng và tình cảm của tôi nên em
không có phản ứng gì. Chỉ thấy trong ánh mắt em toát ra đầy vẻ tin tưởng. Cứ
như vậy chúng tôi say mê trong điệu nhảy dặt dìu và chuyện trò với nhau trong
tiếng nhạc xập xình cho đến khi tan hội lúc nào chẳng biết.
Rồi tình yêu
của chúng tôi từ đấy nhen lên. Tối thứ 7 nào mà không phải làm nhiệm vụ canh
gác tôi cũng xin chỉ huy đơn vị được có mặt tại nhà em. Chúng tôi yêu nhau tình
yêu trong trắng và đơn giản, nồng nàn như cuộc đời của chúng tôi vậy.
Từ đó trở đi mỗi ca gác của tôi thường
được chú trọng hơn. Trước khi đi làm nhiệm vụ tôi bao giờ cũng sửa sang lại
quần áo gọn gàng sạch sẽ, đôi giày thường xuyên được giặt sạch sẽ ôm lấy đôi
chân gọn gàng hơn. Cả đến cái mũ, đôi quân hàm tôi cũng gần như tân trang lại
bởi nơi tôi làm nhiệm vụ cách đó không xa thôn Phúc ở đó có Thủy - người yêu
của tôi.
Phát hiện được điều này đồng đội trong
Đại đội vệ binh lại đùa tôi.
- Canh dạo này chính quy nhất đấy!
Thủ
trưởng đơn vị biểu dương tôi.
Đồng
chí canh gác đảm bảo giờ giấc tốt. Đặc biệt là tác phong chững chạc hẳn, lời ăn
tiếng nói đều có văn hóa, các đồng chí khác cần phải học tập.
Ở
vọng gác tôi vẫn thường nhìn thấy Thủy đi làm qua đây, chúng tôi vẫn nhìn nhau
bằng cái nhìn e thẹn và tin tưởng. Tôi thấy yêu phiên gác hơn lên, sẵn sàng gác
thay cho những đồng chí ốm hoặc bận việc khác. Nói chung là tôi tiến bộ hơn
nhiều so với ngày mới về đơn vị. Có lẽ là tình yêu đã lên tiếng rồi chăng.
LÀNG VĂN HÓA
QUÂN NHÂN ĐỒNG TÂM
Con suối Nà Mường chảy từ dãy núi cao
Viên Nam qua chân núi Vua Bà đến khu vực làng Đồng Tâm ( xã Thạch Hòa - huyện
Thạch Thất - TP Hà Nội) lượn một vòng tạo thành một khu đất rộng, tương đối
bằng phẳng, người dân địa phương thường gọi khu đất ấy với cái tên nôm na là khu
Đồng Lác. Sau này một bộ phận khu gia đình quân nhân của Trường sỹ quan Lục
quân chuyển đến cùng với một số ít hộ dân của thôn 9 và công nhân nông trường
Quân đội 1A lập thành làng Đồng Tâm. Núi Vua Bà, có tài liệu cho rằng xưa kia
chính là nơi Hai Bà Trưng đã dụ quân Tô Định từ khu vực Mê Linh bên kia sông
Hồng vào bẫy tạo thành trận quyết chiến điểm để tiêu diệt giặc. Trận đánh diễn
ra ác liệt và quân Nữ vương đã đánh bại kẻ thù, ở đây Hai Bà đã biết dựa vào
địa hình hiểm yếu và thế núi của dãy Viên Nam để dàn quân bố trí đội hình, đưa
giặc vào trận đồ bát quái không có đường ra và tiêu diệt chúng. Núi Vua Bà
dường như là nơi hội tụ của những tinh tú và hồn thiêng sông núi đã được dòng
Nà Mường đưa về khu Đồng Lác tạo nên một khu đất tốt, có thế tựa sơn, đạp thủy
và ở đó làng quân nhân ở Trường sỹ quan Lục quân được thành lập.
Thuở lập làng, ông Dương Văn Kiểm -
một cán bộ của Nhà trường là người đầu tiên dựng ngôi nhà lá 2 gian của mình
với một trại tăng gia, chăn nuôi của Nhà trường giao cho ông phụ trách. Ngày ấy
dc còn nghèo, nhân dân còn đói, lẽ dĩ nhiên quân đội cũng còn nhiều khó khăn
gian khổ, sản phẩm tăng gia, chăn nuôi đóng vai trò rất quan trọng trong việc
cải thiện và nâng cao chất lượng bữa ăn của bộ đội. Đồng Lác đất tốt, môi
trường trong lành rất thuận lợi cho ông Kiểm trồng lúa, trồng rau, nuôi lợn,
nuôi dê, nuôi trâu bò và gia cầm, những sản phẩm đó được cung cấp cho từng bếp
ăn của Nhà trường. Thời gian ấy, khu gia đình của Trường sỹ quan Lục quân 1 rất
chật hẹp, các cặp vợ chồng cùng công tác ở Trường ngày càng đông, nhu cầu nhà ở
rất cao, trong khi đó kinh phí xây dựng thiếu thốn, nhà cửa khu gia đình quân
nhân ngày càng xuống cấp hư hỏng nhiều nhưng vẫn không đủ, nhiều cặp vợ chồng
cưới nhau 2, 3 năm vẫn phải ở tạm nửa gian khu chiêu đãi sở. Trước thực trạng
đó, Thường vụ Đảng ủy Nhà trường họp bàn, tìm cách tháo gỡ. Một quan điểm đưa
ra phải phối hợp giữa Nhà trường và từng hộ quân nhân cùng thực hiện thì mới
giải quyết được vấn đề nhà ở của gia đình quân nhân. Với sự quyết đoán, sáng
tạo đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Ban giám hiệu đã chọn khu Đồng Lác cách
trường gần 4km là nơi chuyển một bộ phận khu gia đình của Nhà trường ra đó lập
nghiệp. Quyết định đưa ra gặp không ít khó khăn, vướng mắc, một số người không
đồng tình, cho rằng Nhà trường đưa các gia đình sỹ quan ra một nơi hoang vắng,
xa trường, không tạo điều kiện thuận lợi cho sỹ quan, công nhân viên công
tác... Tuy nhiên với sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo, chỉ huy Nhà trường sự
giúp đỡ tận tình của các cơ quan chức năng, một khu gia đình quân nhân mới được
xây dựng - làng Đồng Lác được hình thành từ đó.
“Đất lành chim đậu”, câu nói của người
xưa quả là không sai chút nào. Đồng Lác cựa mình, những ngôi nhà ngói và vườn
cây đua nhau mọc lên, các hộ gia đình quân nhân cần cù chịu khó, sau giờ làm
việc trở về, họ tích cực tăng gia, chăn nuôi, sửa sang nhà cửa, củng cố vườn
tược, cuộc sống cứ thế được nâng lên. Những năm sau đó, nhà tranh, nhà ngói
được thay bằng nhà mái bằng, một tầng, rồi hai tầng, ba tầng, sỹ quan đi làm bằng
xe đạp được thay thế bằng xe máy, quãng đường 4km giờ đây không còn xa nữa. Bộ
mặt Đồng Lác đã thay da, đổi thịt, vốn chỉ là khu đất trống, trở thành khu gia
đình sỹ quan rồi trở thành làng Đồng Lác trù phú, ở đó có cả một ban quản trị
gồm những người đang công tác trong quân đội và đã nghỉ hưu được quần chúng bầu
lên điều hành, quản lý. Bằng chính sức lực và mồ hôi của mình, khu gia đình sỹ
quan Đồng Lác đã và đang phát triển mạnh mẽ, từ chỗ chỉ có khu gia đình sỹ quan
của Nhà trường được gọi là cụm 8, sau đó đã mọc lên khu dân cư của bà con địa
phương và công nhân nông trường quân đội 1A được gọi là cụm 7, hai cụm dân cư
này hợp thành Đồng Lác. Ở trên một khu đất tốt, mặc dù tính chất công việc khác
nhau, quê hương mỗi gia đình khác nhau nhưng Đồng Lác luôn đoàn kết chặt chẽ,
sống có tình làng, nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau, khi có công việc xây
dựng thôn làng thì đồng tâm hiệp lực để thực hiện, gặp những vấn đề vướng mắc
thì đoàn kết, đồng tâm cùng nhau tháo gỡ, tìm ra những biện pháp vẹn toàn.
“Gái có công, chồng không phụ”, tình
đoàn kết quân dân gắn bó và tình làng nghĩa xóm bền chặt đã được lãnh đạo
Trường sỹ quan Lục quân 1 và chính quyền địa phương quan tâm. Ngày 19 tháng 10
năm 2001 làng chính thức được thành lập và cũng chính thức được mang tên làng
Đồng Tâm - cái tên mang đầy ý nghĩa của sự đoàn kết quân dân, đoàn kết xóm
làng.
Đồng Tâm - một tên làng, một địa danh
thuộc xứ Đoài, một làng văn hóa quân nhân của Trường Lục quân 1, năm 2005 đã
được ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây công nhận là làng văn hóa, đây có lẽ là một
trong những số ít làng quân nhân được công nhận danh hiệu quý giá này. Đồng Tâm
gồm 155 hộ với dân số 565 người chủ yếu là các gia đình sỹ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng đang công tác tại Trường sỹ quan Lục quân 1
hoặc đã nghỉ hưu. Làng ở trên một diện tích đất 44,7 ha giữa làng có con đường
tỉnh lộ chạy từ quốc lộ 21A đến đường cao tốc Làng - Hòa Lạc kéo dài, tạo cho
làng có điều kiện phát triển kinh tế, giao thông thuận lợi và là nơi giao điểm
đón nhận các sản phẩm nông nghiệp quý giá của các xã miền núi Lương Sơn, Hòa
Bình mang xuống thị tứ Hòa Lạc bán mua. Làng Đồng Tâm đã hội tụ của tinh thần
đoàn kết, tương thân tương ái, tính cộng đồng, kế thừa và phát huy truyền thống
tốt đẹp của các quê hương xứ sở để xây dựng làng văn hóa quân nhân ngày càng
giàu đẹp. Đồng Tâm luôn giữ vững danh hiệu “làng văn hóa” với thường xuyên củng
cố xây dựng các gia đình văn hóa gắn với xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư.
Năm 2004 có 88% đến năm 2006 có 100% hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa, không
có các tệ nạn xã hội cờ bạc, mại dâm, ma túy, văn hóa phẩm đồi trụy như những
làng quê Việt Nam khác. Làng văn hóa quân nhân Đồng Tâm có chi bộ thôn, có chi
hội cựu chiến binh, chi hội người cao tuổi, chi hội phụ nữ, ban công tác mặt
trận, ban hòa giải, câu lạc bộ thể thao ... Thực hiện tốt nếp sống văn minh
trong thực hiện việc cưới, việc tang, lễ hội, mừng thọ, đời sống kinh tế ổn
định, an ninh chính trị được giữ vững, an toàn xã hội được bảo đảm. Các hộ gia
đình trong làng ngoài giờ làm việc nhà nước còn tích cực tăng gia chăn nuôi,
nhiều hộ có vườn cây ăn quả, có nuôi gia cầm, gia súc, mua sắm được các tiện
nghi đắt tiền. Bằng sự đóng góp công sức và kinh phí, làng văn hóa quân nhân
Đồng Tâm đã xây dựng nên khu vui chơi thể thao với các sân bóng đá, sân cầu
lông, bóng bán, có hệ thống truyền thanh nội bộ. Ở đây hệ thống đường giao
thông, đường làng, ngõ xóm thường xuyên được tu bổ, cải tạo hệ thống thoát
nước, tổ chức làm vệ sinh, mắc điện chiếu sáng, tìm nguồn nước sạch cung cấp cho
các hộ gia đình. Làng văn hóa quân nhân Đồng Tâm thực hiện tốt quy chế dân chủ,
tích cực trong xây dựng chính quyền thôn xã vững mạnh, tỷ lệ cử tri tham gia
bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp đảm bảo 100%, các thành viên trong làng tham
gia xây dựng quy ước thôn bản, quy ước làng văn hóa có tính tích cực cao. Làng
văn hóa quân nhân Đồng Tâm là nơi thường xuyên quan tâm, chăm sóc các cháu học
sinh, con em cán bộ, công nhân viên Nhà trường, các hộ quân nhân trong làng mỗi
tháng đóng góp vào quỹ khuyến học 1000đ để giúp các cháu học sinh nghèo và làm
phần thưởng cho học sinh giỏi. Chính được sự quan tâm đó, nên số học sinh giỏi
của làng văn hóa quân nhân Đồng Tâm ngày càng tăng, hàm năm có trên 10 cháu thi
đỗ các trường đại học, cao đẳng, trên 50 cháu đạt học sinh giỏi từ cấp trường
đến cấp tỉnh.
Đồng Tâm - làng mới được hình thành
trên 10 năm, chính thức có tên gọi Đồng Tâm trong hệ thống làng xã của huyện
Thạch Thất, chưa đầy 5 năm mà đã trở thành làng văn hóa với một bộ mặt mới thật
tươi trẻ. Ở đây chính là hậu phương vững chắc của những người lính Lục quân.
Sau từng ngày, từng buổi huấn luyện vất vả trên thao trường trở về, sống giữa
làng văn hóa quân nhân Lục quân, mỗi sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công
nhân quốc phòng của Nhà trường cảm thấy thư thái hơn, càng thêm yêu mến mái
trường Sỹ quan Lục quân thân yêu và quê hương Hà Tây xứ Đoài mây trắng.
Nguyễn
Văn Lai
TIẾNG TRỐNG TRƯỜNG
THÚC GIỤC
––––
Truyện
ngắn
Tên
hắn là Lành, nhưng tính hắn thì ngược lại, cả phố Ái này ai cũng biết thế, bởi
hắn thuộc dạng nghịch như quỷ sứ, hắn bày đủ trò cho lứa tuổi lau nhau như chơi
đùa cả ngày, nào tập trận giả, vật nhau, múa kiếm gỗ xưng vêo cả đầu, rồi rủ
nhau đá bóng, đánh cầu lông, bóng bàn…Một lần hắn bị công an gọi lên đồn, người
ta nghi cho hắn ăn trộm khi hắn vừa tròn tuổi 15. Hôm đó, hắn đẩy xe hàng cho
mẹ ra chợ bán, trời còn tối, lúc quay về thì đã mờ mờ sáng, hắn thấy một cái
túi du lịch còn mới vứt ở bên đường nơi hắn đi qua. Tò mò, hắn nhặt lên, trong
túi không có gì, chắc của ai đánh rơi-hắn nghĩ vậy và nhặt về định bụng giặt
sạch dùng để đựng hàng cho mẹ đi chợ. Chính cái túi du lịch này đã gây rắc rối
cho hắn. Đúng thế, mấy ngày sau, hắn bị công an gọi lên đồn vì chuyện chiếc túi
du lịch đó.
Một
bọn trộm đột nhập vào nhà ông Hoà ở cuối phố lấy đi hầu hết số của cải có giá
trị trong nhà của ông. Chẳng biết bọn nó chia chác thế nào mà vứt lại chiếc túi
du lịch quái ác đó. Người ta phát hiện thấy mẹ con hắn dùng cái túi ấy, thế là
hắn bị bắt tạm giam 3 ngày. Mẹ và em gái hắn lo buồn lắm, tuy rất bận công việc
nhưng phải thay nhau mang cơm nuôi hắn. Rồi hắn được thả, do vô tội và còn ở
tuổi vị thành niên. Từ hôm ấy, tính hắn khác hẳn, hắn trở nên lì lợm, nghịch
ngợm, quậy phá hơn, thậm chí là hung dữ nữa. Bạn bè cùng lứa hắn chẳng sợ đứa
nào, hắn bắt nạt cả những đứa con gái nếu thấy không vừa ý điều gì. Riêng có
cái Vân Anh con Bác Thanh Toàn nhà bên là hắn phải nể và gần như là khuất phục
hoàn toàn. Vì Vân Anh quan tâm đến hắn nhiều, Vân Anh là bạn của Lài em gái
hắn. Có quà gì Vân Anh cũng để phần cho hắn nhưng mấy khi hắn nhận. Chỉ có dạo hắn bị công an bắt, ở trong
nhà tạm giam thì hắn mới nhận quà của Vân Anh mang cho hắn mà thôi.
Bây giờ, hắn 17 tuổi, Vân Anh 16 tuổi,
hai đứa cùng học lớp 10A1 Trường phổ thông Trung học Tùng Trung. Hắn học giỏi
nên được làm lớp trưởng, nhưng nghịch quá chỉ mấy tháng thì bị cách chức, còn
Vân Anh làm bí thư chi đoàn lớp. Mặc dù hắn nghịch ngợm và quậy phá nhất lớp
nhưng thường ngày vẫn ngấm ngầm giúp đỡ Vân Anh học tập và hoạt động công tác
Đoàn. Giữa học kỳ hắn bị đuổi học vì mắc "3 tội tày đình".
Tội thứ nhất, vào dịp giáp tết năm
ngoái, mặc dù Nhà nước đã cấm đốt pháo, nhưng trong cặp của hắn vẫn có những
quả pháo lẻ, hắn đốt pháo trộm và bị Nhà trường kỷ luật, tý nữa thì bị đuổi học.
Buổi tối, khi đi gánh nước về cho em gái xay bột, hắn gặp Vân Anh. Gặp hắn Vân
Anh nhấm nhẳng hỏi:
- Sao bạn lại đốt pháo ở lớp để bị Nhà
trường kỷ luật, ảnh hưởng cả đến Vân Anh và phong trào Đoàn của lớp.
- Vì có "đằng ấy" đấy, mình
đốt cho "đằng ấy" xem mà. Xin đừng giận mình nhé !
Lần thứ hai, hắn đánh nhau với học
sinh khối lớp 12. Khi ấy, tan học hắn đang lững thững sách cặp trở về thì nghe
Vân Anh gọi giật lại "lại đây đã, bạn giúp mình với, nhanh lên".
Chẳng hiểu có điều gì xảy ra nhưng khi Vân Anh nhờ giúp là hắn nhận lời ngay.
Vân Anh và hắn quay lại lớp học thấy bọn con trai lớp 12 đang tự ý khênh chiếc
bảng đen ra khỏi lớp hắn. Vân Anh cùng hắn giữ lại không cho bọn con trai lớp
12 khênh đi. Hắn chặn đường và kiên quyết không cho bọn chúng lấy chiếc bảng
đen ấy, thấy thái độ kiên quyết của hai người, bọn chúng bỏ đi, Vân Anh khoá
cửa lớp, cả hai mới yên trí ra về. Thế mà hôm sau bọn con trai lớp 12 ấy chặn
xe, đẩy Vân Anh gã lăn ra vũng nước gần đó làm ướt, bẩn chiếc áo trắng học trò
của nàng. Đúng lúc ấy, hắn đi tới thế là một trận ẩu chiến xảy ra, hắn nhảy vào
đấm đá túi bụi, tuy một mình nhưng hắn xông xáo không chịu thua, bọn con trai
lớp 12 bị một trận khá đau đớn, nhưng hắn cũng bị tơi tả, mặt mũi vêu, sước
nhiều chỗ. Hắn nhanh chóng lên xe của Vân Anh và rút khỏi hiện trường.
-Mình cám ơn bạn, nhưng đáng ra bạn
không nên đánh nhau. Nhìn cậu đám đá mình thấy sợ quá, may mà không bị đau
nhiều đấy- Vân Anh thốt lên.
- Sao chúng nó giám làm "đằng
ấy" ngã, Thấy Vân Anh ướt, bẩn quần áo mình không chịu nổi, nên phải cho
chúng nó một trận, mình không sao cả.
Chuyện
vở lở, Ban Giám hiệu Nhà trường biết được và thế là hắn bị kỷ luật.
Lần thứ ba, hành động của hắn vô tình
nhưng rất nặng tội. Lúc ấy hắn vừa xoay người sút quả bóng thật căng thì cũng
là lúc thầy giáo hiệu trưởng vừa đi tới, quả bóng bay thẳng đúng đầu thầy, cả
người lẫn xe đổ kềnh. Hắn chạy đến đỡ thầy dạy và nhận lỗi ngay, hắn khai rõ họ
tên, lớp học, không hề giấu diếm chút nào. Ngày hôm sau hắn có quyết định bị
đuổi học do chính tay thầy hiệu trưởng ký. Hắn buồn ủ rũ, nhưng nhìn mặt hắn cứ
tỉnh bơ, nhiều người thầm trách "trông mặt cứ nhơn nhơn, sao lại có học
sinh vô kỷ luật thể không biết". Hắn buồn và ân hận thực sự, Vân Anh cũng
buồn không kém nó. Từ nay hắn không được đi học nữa rồi. Thôi đành chịu vậy,
thế thì ở nhà giúp mẹ. Hắn thương mẹ hắn lắm.
Nhà hắn nghèo, bố hắn mất sớm lúc đó
hắn mới 10 tuổi, 3 mẹ con hắn nuôi nhau qua bữa. Nhà nghèo, sự học của hắn bị
gián đoạn, tuy hắn là anh nhưng học cùng em gái một lớp. hết bậc trung học cơ
sở em gái hắn phải nghỉ học giúp mẹ làm bánh và chợ búa. Hắn là con trai, lại
học giỏi nên được ưu tiên tiếp tục học lên trung học phổ thông. Tuy nghịch
nhưng hắn thông minh và chăm chỉ nên kết quả học tập rất tốt. Hắn không muốn
phụ lòng mẹ và em gái đã tạo điều kiện cho hắn được tiếp tục học. Bị đuổi học,
biết được tin này chắc mẹ và em gái buồn lắm đây. Hắn chứng kiến cảnh mẹ hắn
vất vả nhiều, không có đêm nào là mẹ hắn được ngủ trước 12 giờ và bao giờ cũng
dậy trước 4 giờ sáng để làm bánh và đi chợ bán. Hắn biết bản thân mình đã lớn
và khoẻ nhất nhà nhưng chưa làm được cái gì cho ra hồn để giúp mẹ, nhưng vẫn
phải dùng tiền của mẹ để đóng học phí và mua sách vở. Nên hắn càng thương mẹ và
em gái hơn gấp nhiều lần. Hắn ân hận quá, trong lòng như muốn khóc mà không
khóc được, hắn muốn chạy về đứng trước mẹ để xin lỗi nhưng không thể làm nổi.
Thôi cũng được. hắn nghĩ! ta sẽ ra chợ
cùng với mẹ và em bán hàng, nếu có ai nhờ việc gì khuân vác hoặc bưng bê ta sẽ
làm ngay, miễn là kiếm được chút tiền phụ giúp mẹ là được.
Thế là, không được đi học, suốt ngày ở
chợ, những lúc mệt nhọc ngồi nghỉ hắn lại nhớ lớp 10 A1 của hắn. Hắn nhớ, khi
còn đi học cô giáo chủ nhiệm biết hoàn cảnh gia đình hắn khó khăn nên hắn có
nghịch gợm một tý cô giáo cũng bỏ qua cho. Cô bảo Vân Anh gần nhà hắn thì cố
gắng giúp hắn học hành với. Cô không nói nhưng Vân Anh cũng rất muốn giúp,
nhưng hắn có bao giờ nhận sự giúp đỡ của Vân Anh đâu. Hắn tự ái vì gia đình Vân
Anh kinh tế khá giả hơn nhiều. Lúc này hắn nhớ các bạn và nhớ Vân Anh nhất. Cứ
mỗi lần ở ngoài chợ về, mở khoá cửa xong, bật điện sáng hắn lao vào bàn học của
hắn lật từng quyển sách, quyển vở lên ngắm nghía. Nhiều lần hắn định gói ghém
sách vở lại và cất đi cho gọn, không thèm nói đến chuyện học hành nữa.
Một
buổi trưa, hắn vừa về đến nhà, đã nghe có tiếng Vân Anh gọi thân quen.
- Bạn có nhà đấy à?
- "Đằng ấy" hôm nay tan học
sớm quá nhỉ.
- Sớm đâu mà sớm cũng, như mọi hôm
thôi, bạn nghỉ học nên quên cả thời gian đấy mà.
- Thôi đừng nói đến chuyện học hành nữa,
mình sẽ kiếm được tiền để tự nuôi mình, "đằng ấy" đừng lo cho mình
nhé.
- Này chỗ ngồi của Lành trong lớp vẫn
còn trống đấy, không có bạn tự nhiên mình thấy lớp vắng vắng thế nào ấy.
- Có thật không ?
Tự nhiên hắn thấy cảm động, mặt nóng
ran, trước Vân Anh tay chân luống cuống cả lên, Vân Anh trong thấy đến là buồn
cười.
- Thôi chết,"đằng ấy" vào
nhà mình chơi đã, từ nãy quên mất không mời Vân Anh vào nhà. Tự nhiên hắn
chuyển đổi cách xưng hô từ "đằng ấy" trở thành Vân Anh.
Thôi mình về đây, tối bạn đừng đi chơi
nữa ở nhà, mình sẽ mang vở sang chép lại bài cho bạn học nhé, được không ?
- Cám ơn "đằng ấy" để rồi
xem.
- Thôi đừng từ chối, mình về nhé!
- Khoan đã, Vân Anh …mà thôi!
Vân Anh vội ù té chạy, để lại phía hắn
cái nguýt dài và tiếng chào tạp biệt "mình về đây".
**
Hắn xuất hiện ở khu vực bãi tập quân
sự của trường. Nhìn thấy hắn, các học sinh chỉ trỏ, các thầy, cô giáo nói nhỏ
với nhau "coi chừng hắn phá đám, khéo hắn lấy mất súng thì nguy".
Người ta thu gọn các dụng cụ, phương tiện, vũ khí trang bị gọn lại, vì sợ mất
mát. Một tuần học quân sự của Trường Trung học phổ thông Tùng Trung náo nhiệt,
học sinh tấp nập đông vui, nào súng, nào gậy, nào vòng ngụy trang, lựu đạn lỉnh
kỉnh lắm thứ. Lúc Vân Anh đi học hắn bỏ buổi chợ theo ra bãi tập quân sự, từ xa
ở góc sân trường hắn xem các bạn nữ và Vân Anh tập bắn, tập đi đều "một,
hai". Trông bạn nào cũng cũng đẹp và lạ lẫm vì ai cũng mượn quân phục, đội
mũ cối, chân đi dầy vải, tất xanh, nhìn rất khoẻ mạnh và đều tăm tắp. Bọn con
trai nhiều đứa lại được đeo cả súng AK, CKC nữa trông mới hoành tráng, cứng cỏi
làm sao. Nhìn đội hình các lớp tập đội ngũ đi đều thẳng tắp, tay đánh cao như
con nhà võ, hắn thèm được đứng trong đội hình tập quân sự của lớp quá. Thể lực
và tố chất của hắn rất mạnh mẽ nên tập quân sự rất phù hợp với tính cách của
hắn, hắn thích lắm, nếu không bị đuổi học thì tuyệt biết bao nhiêu-hắn nghĩ thế
và buồn bã nhìn theo các bạn. Đáng lẽ hắn phải được chỉ huy lớp 10 A1 của hắn
tập quân sự đợt này mới phải chứ. Vì mọi người nói hắn có tướng chỉ huy lắm cơ
mà. Tự nhiên hắn thấy cay cay sống mũi. Cái Hà, cái Hạnh, cái Vân Anh mỗi đứa
cũng được giữ một khẩu súng CKC, một vòng nguỵ trang, khi tập tháo lắp cứ làm
răm rắp, tiếng lách cách của vũ khí nghe đến vui tai, như kéo nó đến gần nơi tập
luyện của Lớp 10 A1 hơn.
Đã hơn một tháng bị đuổi học, hắn
không được đến trường nữa. Mỗi lần có việc đi qua cổng trường, hắn tức tối lắm,
chỉ mong có đứa con trai nào của lớp 12 đụng đến để mà được lao vào ẩu đã cho
bõ tức. Tính hắn ngày càng hung hãn hơn, ở nhà hắn hiền từ, chịu khó thế mà đến
chợ, hắn táo tợn như gã giang hồ, cũng quát nạt, cũng tranh cướp, giành giật
từng công việc, từng đồng tiền, nhiều khi hắn gây sự vô cớ với khối người khách
mua hàng. Thấy hắn ở chợ người ta nghi ngay hắn là một trong những đứa bụi đời
lừa đảo ở tuổi vị thành niên. Thực tình, hắn nghỉ học thì mẹ hắn nhàn hơn,
nhưng mẹ rất buồn định bụng sẽ đến trường xin cho hắn được tiếp tục đi học.
Nhưng rồi công việc chợ búa cuốn hút, vì đồng tiền, bát gạo và cuộc sống gia đình
nên mẹ hắn không đi được, lâu dần rồi quên luôn. Tuy có thời gian giúp mẹ nhưng
kinh tế gia đình chả nâng lên được mấy, vì kiếm việc làm và kiếm tiền đâu phải
chuyện dễ đối với nó. Mặc dù vất vả và bận rộn suốt ngày ngoài chợ, nhiều hôm
tối đến hắn vẫn mượn vở của Vân Anh chép lại bài và nhờ Vân Anh dạy thêm cho.
Thì ra hắn vẫn thèm học lắm chứ, có muốn bỏ học giữa chừng đâu. Hôm nay biết
lớp tập quân sự, hắn bỏ buổi chợ ra xem các bạn tập, hắn muốn được đứng trong
đội ngũ ấy lắm nhưng không thể. Vì đến gần người ta sẽ cảnh giác, tưởng hắn đến
để chôm chỉa và phá đám, rồi sẽ nhìn hắn với con mắt khinh bỉ, thậm chí còn mời
cả công an đến can thiệp nữa ấy chứ. Thôi dại gì, cứ đứng ở xa nhìn cũng được.
Nhiều lúc hắn muốn xung phong đi nghĩa vụ quân sự nhập ngũ vào Quân đội nhưng
chưa đủ tuổi. ở phường đội người ta không tuyển hắn vì nhà hắn neo người, lí
lịch của hắn không trong sạch, con người hắn không tốt, nghịch ngợm như quỷ sứ,
nên chẳng dại gì mà tuyển hắn cho thêm rắc rối.
Hắn chạy, tự nhiên hắn bỏ chạy khỏi
bãi tập quân sự của trường, hắn chạy như có ma đuổi một mạch về nhà, đóng cửa
úp mặt xuống giường mà khóc. Những giọt nước mắt hiếm hoi của hắn ở lứa tuổi vị
thành niên đầy gian truân cứ thế chảy tràn, hắn thương cho số kiếp con người,
thương cho bản thân hắn gặp nhiều điều không may. Hình như hắn có chút ân hận,
mà hắn có tội gì mà ân hận mới được chứ. Những trò chơi dẫn đến khuyết điểm là
do vô tình và manh động của tuổi học trò mà thôi.
Chiều hôm ấy, Vân Anh lại sang nhà
hắn, gặp nhau Vân Anh hỏi.
- Lành đã làm xong quả lựu đạn gỗ hôm
trước Vân Anh nhờ chưa? ngày mai đến buổi tập ném lự đạn rồi dấy.
- Bây giờ mình làm vẫn kịp mà-hắn cố
gạt hết nỗi buồn và nhanh chóng cùng Vân Anh đi tìm dao và gỗ để đẽo lựu đạn.
Trong khi đẽo lựu đạn, Vân Anh bắt gặp
ánh mắt đầy nét buồn trên khuôn mặt có vẻ ương bướng của hắn. Tự nhiên Vân Anh
thấy thương cho hắn quá. Nếu không được học tiếp, coi như là đời hắn mờ hẳn,
suốt ngày chỉ là chợ búa với đồng tiền, bát gạo và hầm hè cải nhau mà thôi.
Bất giác Vân Anh hỏi hắn:
- Không được đi học nữa, Lành buồn lắm
phải không?
- Ừ, mình buồn lắm Vân Anh ạ, thấy các
bạn tập quân sự mình thích quá. Nhưng đã bị đuổi học rồi mình không có cơ hội
để được đi học như các bạn nữa. Ôi sao hồi ấy mình lại nghịch thế không biết,
bây giờ ân hận thì đã muộn mất rồi. Mình…mình muốn được đi học lại. Mình nhớ
Lớp 10A1 của chúng mình quá, nhớ tiếng trống trường, nó như thúc giục mình
nhiều đến vậy. Nếu được bắt đầu lại, mình không nghịch ngợm nữa mà cố gắng học
tập để theo kịp Vân Anh, "đằng ấy" đừng giận mình nhé-Hắn ấp úng với
giọng buồn thổn thức.
Vân Anh ngạc nhiên, cứ tưởng hắn chán
học nên quậy phá, nghịch ngợm như thế, ai dè hắn vẫn thích học lắm. Nhìn hắn
chằm chằm Vân Anh bảo:
- Thế thì được rồi, mình sẽ báo cáo cô
giáo chủ nhiệm và cả lớp biết rằng Lành vẫn thích được đi học, chứ không như
mọi người nghĩ đâu. À này, bố tớ hỏi Lành đấy, bố bảo sao dạo này thằng Lành
nghỉ học nhiều thế, hắn không chịu học hành gì cả, toàn chốn học ra chợ nhịch
ngợm thế thì làm sao mà khá được.
- Có thật không, hắn giật giọng hỏi ?
Hay là "Đằng ấy" nhờ bố xin hộ cho mình được đi học với.
- Được thôi, nhưng Lành phải đến trực
tiếp gặp bố tớ mà xin, sau đó tớ sẽ nói giúp chắc là sẽ được.
- Ừ nhé, ngay tối nay, mình sẽ bảo cả
mẹ mình đến nhà Vân Anh để nhờ xem có được không. Xong lựu đạn rồi đây, Vân Anh
cầm về mai đi tập nhé, nhất định tối nay mình và mẹ sẽ đến.
**
Ông Thanh Toàn-bố Vân Anh là phó Chủ
tich thị xã Tùng Trung phụ trách giáo dục, ông có mối quan hệ rộng rãi với các
thầy, cô giáo của các trường phổ thông trên địa bàn thị xã. Ngoài mối quan hệ
thân thiết, ông còn có tiếng nói rất trọng lượng và thế mạnh của vị lãnh đạo
thị xã. Nếu được ông đứng ra giúp chắc là sẽ toại nguyện. Đối với ông xin cho
một cậu học trò được đi học lại chỉ là một chuyện nhỏ trong tầm tay và vòng ảnh
hưởng của mình, cái chính là ý chí và đạo đức của người học tồ ấy mà thôi. Việc
tuy không khó, nhưng ông không dễ dàng giúp đỡ ngay mà phải để cho chính người
học trò thấy được cái giá phải trả cho sự nghich ngợm, thiếu chín chắn của
mình. Với ông "đánh kẻ chạy đi, chứ không ai đánh kẻ chạy lại" cương
vị của ông là lãnh đạo, chỉ đạo thế nào để cho nền giáo dục của Thị xã ngày
càng phát triển, giúp cho học sinh được đi học là đều tất yếu. Với hắn, vừa là
hàng xóm, vừa là bạn thân của con gái mình xin cho hắn được đi học trở lại sau
những vấp váp của tuổi học trò là trách nhiệm và tình thương của ông. Bởi ông
vừa là người lãnh đạo, vừa là bậc cha chú, cần phải quan tâm nhiều đến hắn, có
điều hắn hoặc phụ huynh của hắn phải có đơn xin đi học, chí ít cũng phải nói
với ông một tiếng chứ, đó là lẽ thường tình.
Nói thế nhưng mà hắn vừa dát, vừa sợ.
Ở ngoài đời giữa chốn chợ búa ồn ào, ngập ngụa, hắn chẳng sợ điều gì cả, thế mà
đến nhà Vân Anh hắn ngại thế. Hôm ấy, hăn chạy nhanh ra chợ bảo với mẹ những
điều Vân Anh nói, những suy nghĩ và nguyện vọng của hắn. Mẹ hắn mừng lắm, nước
mắt bà ứa ra, bà nhìn con mà cổ họng nghẹ ngào, tuy cuộc đời bà vất vả suốt
ngày ngoài chợ chạy ăn từng bữa, chẳng biết miếng ngon là gì, nhưng bà không
cần gì cả, chỉ muốn cho con được ăn học đến nơi đến chốn, và trở thành người là
bà vui rồi. Khi thấy hắn bị đuổi học bà tuyệt vộng vô cùng, với thân phận goá
bụa, bà không thể giúp gì cho hắn. Lúc này biết hắn quyết tâm đi học trở lại,
bà vui lắm nên cố bán nhanh hết hàng để về xớm xin cho con đi học. Hắn cũng
phấn khởi ra mặt, lầm lũi giúp mẹ dọn hàng về nghỉ xớm.
Trời vừa xẩm tối, hắn đưa mẹ đến cổng
nhà Vân Anh đứng ngoài chờ đợi để mẹ một mình vào. Nghe tiếng động, hai con chó
to xồ ra, bà định lùi bước nhưng hắn xông lên đe nẹp lũ chó, Thấy có người gọi
cổng, Vân Anh chạy ra đón mẹ con hắn, tuy thế hắn vần chưa dám vào, chỉ đến khi
nghe tiếng bác Thanh Toàn gọi tên, hắn mới nem nép vào nhà.
Sau khi mời ngồi, rót nước cho hai mẹ
con hắn uống, bác Thanh Toàn mới ôn tồn hỏi :
- Bác gái sang đây chắc là xin cho
cháu Lành tiếp tục được đi học phải không ? Thôi được rồi tôi sẽ giúp, chắc
chắn là sẽ được, thầy hiệu trưởng Trường Tùng Trung với tôi là chỗ bạn bè thân
thiết ấy mà. Có điều cháu Lành phải chịu khó mà học chứ, bớt nghịch ngợm đi
cháu nhé, cố gắng mà học, có kiến thức mới giúp được mẹ chứ cháu, chẳng nhẽ cứ
để mẹ cháu vất vả và khổ mãi à, cố gắng lên nhé, bác tin vào cháu đấy.
Mới nghe hỏi thế mà mẹ hắn đã vội nất
lên, nước mắt lưng tròng, không thể nói lên lời.
Nghe thế hắn bạo dạn và mạnh mẽ hẳn
lên, thay mẹ trình bày nguyện vọng của mình với bác.
- Dạ thưa Bác, cháu biết lỗi rồi, Bác
xin cho cháu được đi học với. Cháu hứa là sẽ học tốt và chấp hành đúng nội quy
của Nhà trường, không bao giờ nghịch ngợm nữa ạ.
Thế nhé! có lẽ tuần sau là cháu có thể
đến trường được rồi, hai mẹ con uống nước rồi về để còn chuẩn bị hàng mai đi
chợ nữa chứ. À đây, tôi có tý quà nhỏ chị cầm về cho cháu nhé. Vừa nói, ông vừa
đưa cho mẹ hắn một chiếc cặp da đen bóng. Tự nhiên , hắn bật khóc, nước mắt ở
đâu mà lắm thế, cứ chảy tràn trên gò má hắn, hắn cùng mẹ nghẹ ngào chào Bác
Thanh rồi ra về.
Ra khỏi cổng, mừng vui đến tột độ, hắn
bỏ mẹ hắn đi sau, nhảy chân thấp, chân cao, mồm huýt sáo vang chạy về nhà quên cả
chào Vân Anh. Trời tối, những ánh điện trong nhà hắt ra không đủ nhìn đường,
nhưng với hắn thấy như hàng ngàn, hàng vạn ngôi sao lấp lánh đang chiếu dọi
xuống soi cho hắn đi. Bên tai hắn ù ù tiêng gió, nghe vang vọng như tiếng trống
trường đang thúc giục.
Nguyễn Văn
Lai
HT 2CA-13 Sơn Lộc, Hà Tây
(Trường
Sỹ quan Lục quân 1)
VANG
VỌNG ĐỒNG DOI
–––––––
Ký
của Nguyễn văn Lai
Nghe
tên Đồng Doi người ta tưởng rằng đó là một miền đồng bằng với những ruộng lúa
thẳng cánh cò bay. Nhưng không phải thế, đây là một vùng đồi núi nhấp nhô, một
mầu xanh mát mắt của những đồi cây, một địa danh tiếp giáp giữ 2 tỉnh Hà Tây và
Hòa Bình, nơi có con suối Cò uốn lượn vòng quanh và con đường cao tốc Láng Hòa
Lạc kéo dài chạy qua. Là xứ sở của núi, không gian Đồng Doi thông thoáng dễ
quan sát, dễ bố trí đội hình luyện tập, có thể tấn công trên mọi địa hình và
phòng ngự đón đánh địch trên các hướng, các mũi. Từ Đồng Doi trải dài là sân
bay Hòa Lạc và hồ Đồng Mô Ngải Sơn, một "Làng văn hóa các dân tộc Việt
Nan" đã khởi công và xắp hoàn thành, tiềm năng du lịch đã thành sự thật.
Dãy Đồng Doi là những bình độ kéo dài của núi Ba Vì, với những điểm cao đã đi
vào tiềm thức của những người đã từng được đào tạo qua nhà trường quân sự lớn
vào bậc nhất đất nước và Đông Dương này- Trường Sỹ quan Lục quân 1. Dưới góc độ
quan sát và con mắt của các nhà quân sự, nơi đây, địa hình, địa lợi rất phù hợp
cho bày trận đánh giặc. Ở Đồng Doi, những quả đồi như bát úp được bộ đội Lục
quân xây dựng thành những trận địa phòng ngự, tiến công, phục kích, tập kích,
đổ bộ đường không liên hoàn và một trường bắn có quy mô tương đối lớn và hiện
đại, là thao trường luyện tập của Trường Sỹ quan Lục quân 1. Những vạt đồi xanh
của Đồng Doi với những công sự đất đỏ nhìn như một trận đồ bát quái dùng để dạy
học viên cách đánh giặc. Địa hình này rất phù hợp cho bày binh, bố trận, tiến
cũng dễ mà lui cũng tiện. Phòng ngự có thể dựa vào lưng của Điểm cao 355 cố
thủ, tiến công có thể đánh thẳng xuống sân bay Hòa Lạc theo đường 84, xuôi Quốc
lộ 21 về Sơn Tây-Xuân Mai…
Một khoảng không gian rộng lớn Đồng Doi, bầu trời
trong xanh trong nắng và gió. Xa xa là Tản Viên mây trắng với 3 ngọn núi nhấp
nhô có độ cao trên 1000m ở đó có truyền thuyết về một cuộc chiến trời long đất
lở của "Sơn Tinh, Thủy Tinh" thủa hồng hoang. Thật đúng là đất thiêng
của quê hương giầu truyền thống anh hùng và cách mạng, là mảnh đất "địa
linh nhân kiệt" của xứ Đoài. Đồng Doi là nơi đào luyện, nơi xuất phát
những tiềm ẩn tài năng nghệ thuật quân sự Việt Nam. Từ đây biết bao thế hệ sỹ
quan Lục quân đã nối tiếp nhau trưởng thành, họ đi đến các chiến trường trong
cả nước và quốc tế vận dụng bài học chiến thuật, bắn súng vào từng trận đánh
tiêu diệt quân thù, làm nên những trận chiến thắng vẻ vang, góp phần vào sự
nghiệp giải phong dân tộc thống nhất Tổ quốc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ đất
nước. Cũng từ thao trường này, đã có nhiều sỹ quan trở thành những tướng lĩnh
tài ba, những văn nghệ sỹ có tên tuổi, những kiện tướng thể thao quốc gia và
quốc tế. Họ là những tấm gương sáng về đạo đức cách mạng và ý chí vuơn lên cho
các thế hệ kế tiếp học tập và noi theo.
Đồng
Doi nghe mêng mang như một bài hát, vang vọng mãi bên những bản người Mường Yên
Bài, xóm Quýt, xóm Chóng, xóm Muỗi, xóm Mái thân thương, ở đó có tiếng mõ trâu
lóc cóc, tiếng ý ới gọi nhau mỗi buổi chiều về, từng đôi trai gái hò hẹn nhau
trên những triền đồi khi đêm về dưới ánh trăng thanh. Từng đàn em bé áo trắng,
khăn quàng đỏ trên vai tung tăng cắp sách tới trường. Những cô giáo là vợ bộ
đội Lục quân say sưa dạy học trò trên những bục giảng của mái trường ngói đỏ
biểu hiện của sự no ấm, thanh bình.
*
Tiểu
đoàn 10 là đơn vị phục vụ huấn luyện của
Trường sỹ quan Lục quân 1 đứng chân trên địa bàn Đồng Doi do Thượng tá Trịnh Bá
Hoa là Tiểu đoàn trưởng và Thượng tá Lê Khắc Việt là Chính trị viên. Biên chế
của Tiểu đoàn gồm Đại đội bộ binh 34, Đại đội Cơ giới 35, Trung đội Bảo vệ thao
trường và trung tâm Trường bắn Đồng Doi. Gần 20 năm về trước Tiểu đoàn 10 được
thành lập trên cơ sở khu trường bắn do Liên Xô cũ giúp Nhà trường xây dựng với
những tấm bia, máy báo bia cũ kỹ, lạc hậu của thời bao cấp. Cả một dãy Đồng Doi
rộng lớn Trường bắn lạc vào giữ ngút ngàn của lau sạy, dương xỉ. Hàng vạn công
bộ đội cùng những cỗ máy ủi san lấp, xẻ núi, lát đường, đắp bệ bắn, ụ cắm bia và
những chiến hào giao thông hào xây dựng nên một trường bắn vào loại khá hiện
đại lúc bấy giờ. Sau này, ở Đồng Doi ngoài khu trường bắn còn hình thành nên
các thao trường luyện tập chiến thuật với các trận địa tiến công, phòng ngự,
tập kích, phục kích, đỏ bộ đường không. Nhiệm vụ của Tiểu đoàn 10 là đảm bảo
phục vụ các buổi bắn đạn thật các loại súng bộ binh và hỏa lực của Nhà trường
và một số đơn vị bạn. Phục vụ các đợt diễn tập tổng hợp có bắn chiến đấu tiến công và phòng ngự. Phục vụ các lần thi
tốt nghiệp và tốt nghiệp quốc gia các khóa cho nhiều đối tượng học viên. Phục
vụ các đợt tập huấn của Nhà trường và tập huấn của Bộ Quốc phòng và một số cơ
quan cấp trên. Tuần tra bảo vệ đất quốc phòng giữ vững an ninh trật tự khu vực
thao trường chiến thuật và trường bắn. Xây dựng mối đoàn kết gắn bó với nhân
dân địa phương nơi đoáng quân…
Tiểu
đoàn thường xuyên có quân số cán bộ, nhân viên, Hạ sỹ quan-chiến sỹ phục vụ
đông, tính chất nhiệm vụ đa dạng, phức tạp, nặng nề, cường độ phục vụ huấn
luyện và trực tiếp huấn luyện cao, địa bàn đóng quân phân tán, doanh trại, nơi
ăn, chốn ở của bộ đội có nơi đã xuống cấp. Đội ngũ cán bộ trường xuyên thay
đổi, luân chuyển. Một điều khá đặc biệt là doanh trại của các phân đội thuộc
Tiểu đoàn nằm xen kẻ với bà con nhân dân và một số gia đình công nhân thuộc
Nông trường Việt-Mông, gần dự án làng Văn hoá các dân tộc Việt Nam. Vấn đề khó
khăn nổi cộm là xuát hiện các hành vi lấn chiếm đất quốc phòng của một số người
thiếu hiểu biết pháp luật hoặc "nhảy dù" từ nơi khác đến xâm canh,
xâm cư. Đây là một vấn đề hết sức nhức nhối, nhưng cũng rất tế nhị và nhạy cảm.
Quản lý và bảo vệ đất Quốc phòng tốt nhưng không để ảnh hưởng đến mối quan hệ
đoàn kết quân dân, nhất là mối quan hệ giữa đơn vị với chính quyền và đoàn thể
nhân dân địa phương là một vấn đề cần làm và phải làm.
*
Ngày ấy tiếp quản Tiểu đoàn 10, Thượng
tá Nguyễn Hưng Tân (nay là Đại tá Hệ trưởng Hệ 4- Trường sỹ quan Lục quân 1)
được điều về nhận chức Tiểu đoàn trưởng khi Tiểu đoàn 10 còn đầy dẫy những khó
khăn. Thượng tá Nguyễn Hưng Tân có những trăn trở, suy nghĩ, phải làm sao để
xây dựng Tiểu đoàn 10 vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,
xứng đáng với lòng tin của tổ chức. Tuy nhiên, trong đầy rẫy khó khăn đó, nếu
không có lòng nhiệt tình và ý thức trách nhiệm cao thì khó trách khỏi những sai
sót và sẽ dẫn đến khuyết điểm, trong đó khuyết điểm lớn nhất là chỉ huy đơn vị
không hoàn thành nhiệm vụ hoặc hoàn thành nhiệm vụ thấp. Nhưng điều đó đã không
xảy ra đối với Nguyễn Hưng Tân và tập thể Tiểu đoàn 10. Đến nay, Tiểu đoàn 10
đã có bước phát triển ổn định vững chắc, đơn vị cơ bản hoàn thành tốt mọi nhiệm
vụ được giao, huấn luyện và phục vụ huấn luyện đạt được mục đích, yêu cầu đề
ra. Trong đó giữ vững được đất quốc phòng không bị lấn chiếm hoặc bị xâm canh,
xâm cư. Vấn đề quan trọng là tiểu đoàn đã xây dựng tốt địa bàn đóng quân an
toàn, an ninh chính trị, trật tự xã hội, quan hệ đoàn kết gắn bó với Đảng và
Chính quyền địa phương mà trực tiếp là 2 xã Yên Bài, Vân Hoà (huyện Ba Vì),
phối hợp với địa phương ngăn chặn kịp thời các hành vi lấn chiếm đất quốc
phòng, các hiện tượng gây mất trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ
của một số đối tượng "nổi cộm" trên khu vực đóng quân của tiểu đoàn.
Tiếp xúc với Thượng tá Nguyễn Hưng Tân, thấy rõ ở anh tính cương nghị và tố
chất của người sỹ quan chỉ huy. Anh bồi hồi kể lại chuyện của những ngày mới về
nhận nhiệm vụ chỉ huy tiểu đoàn. Lần đó, anh đi kiểm tra đơn vị cơ sở và thâm
nhập địa bàn đóng quân của đơn vị nhằm tìm hiểu để có biện pháp quản lý chỉ
huy. Đi qua một quán nước bên đường, trong đó có một số thanh niên lười lao
động, thường xuyên tụ tập ở các quán uống rượu, sẵn sàng gây rối hoặc sấn sổ
vào những nơi xảy ra các vụ việc tranh chấp, làm mất trật tự, mất ổn định, gây
khó khăn cho chính quyền địa phương và đơn vị giải quyết, ổn định tình hình.
Sau đó chúng nhận được một số tiền bồi dưỡng của một số kẻ chủ mưu, rồi chia
nhau uống rượu, đánh chén. Gặp Nguyễn Hưng Tân đi kiểm tra, chúng đon đả mời
anh vào quán. Lưỡng lự một chút, sau vài giây suy nghĩ (đây cũng là một dịp để
tìm hiểu thêm tình hình địa bàn đóng quân) anh bước vào và hỏi:
-
Các anh gọi tôi vào đây có việc gì?
-
Ôi xếp, mời xếp vào uống rượu với chúng em, xếp mới về đây xếp chưa biết chúng
em nhưng chúng em đã biết xếp rồi. Một thanh niên mắt xếch vừa nói vừa kéo ghế
mời anh ngồi.
- Xin mời các anh cứ uống rượu, tôi phải
đi kiểm tra đơn vị, không có việc gì thì chào các anh tôi đi.
- Ấy cứ bình đã xếp! việc đâu đã có
đó. Xếp ngồi với chúng em cũng là đi làm việc đấy chứ. Chúng em có việc muốn
trao đổi với xếp đây. Tên thanh niên mắt xếch nói tiếp.
- Có việc gì các anh cứ nói! Anh bình
tĩnh trả lời và ngồi xuống ghế.
- Em nói thật với xếp nhé! Biết xếp là
người "rất rắn" nên được Trường Sỹ quan Lục quân 1 cử vào đây chỉ huy
Tiểu đoàn 10. Tuy vậy, nhân đây chúng tôi xin báo và khuyên xếp một điều: Làm
"rắn" ở đâu không biết, chứ vào đây không nên làm "rắn"
quá mà khổ đấy xếp ạ, kẻo "không có
đường về quê mẹ" và cũng để cửa cho chúng tôi làm ăn với chứ.
- Các anh đừng có doạ tôi! Cũng nhân
đây tôi nói rõ với các anh một điều. Tôi quê mãi tận Thái Bình, vợ, con tôi
sống và công tác cũng tại quê. Tôi cùng đơn vị bảo vệ đất quốc phòng ở đây là
bảo vệ đất cho Quân đội, cho Nhà nước chứ không phải là cho gia đình tôi. Tôi
chỉ sợ làm gì sai trái với lương tâm, đạo đức mà thôi. Chỉ có ai làm những điều
bất nhân, bất nghĩa và sai trái thì phải gánh chịu hậu quả, chứ tôi làm việc vì
dân, vì Đảng, tôi chẳng sợ gì. Nhân đây tôi cũng khuyên các anh đừng nên làm
điều gì trái với đạo lý, trái pháp luật mà dính vào con đường tù tội, rồi vợ
con, gia đình các anh phải khổ lây đấy. Mong các anh suy nghĩ cho kỹ, đừng vì
đồng tiền mà mất hết nhân tính, mà có những hành động mù quáng.
Cả quán nước im lặng, số người trên
không ai nói thêm được điều gì nữa, người thanh niên mắt xếch lặng lẽ đứng dậy
rót nước mời anh. Anh uống cạn chén nước và chào mọi người đi làm nhiệm vụ theo
kết hoạch.
Người lính thời bình là thế đấy! đâu
có phải đã hết gian khổ, hy sinh. Nền kinh tế thị trường đang tác động sâu sắc
đến tâm tư, tình cảm của người lính, đâu đó người ta đua chen nhau làm giầu,
còn người lính thì thế nào? Cuộc sống hiện tại không đơn giản chút nào, không
chỉ là những miếng cơm, manh áo, tivi, xe máy mà là rất nhiều thứ nữa. Tỷ dụ
như có bao nhiêu mét vuông đất mặt đường khu đô thi quy hoạch, hiện tại có mấy
ngôi nhà, vợ con đã vào hết biên chế nhà nước chưa.v.v... Kể ra suy bì, so sánh
thì không bao giờ công bằng được, nhưng trăn trở của người lính lớn nhất đó là
việc làm của những đứa con mình dứt ruột sinh ra. Bởi cả cuộc đời bộ đội người
lính không có hoặc có rất ít thời gian lo cho gia đình ,lo dạy dỗ con cái. Chỉ
một mình nười mẹ thì chưa đủ dạy con nên người, nói chi đến việc làm cho con
nữa. Nguyễn Hưng Tân cũng như bao người lính khác, hoàn cảnh gia đình cũng gặp
nhiều khó khăn, nhưng anh luôn đặt việc hoàn thành nhiệm vụ lên trên những thứ
khác. Cấp trên giao cho anh chỉ huy một Tiểu đoàn huấn luyện sỹ quan, phục vụ
huấn luyện và giữ đất quốc phòng. Anh phải tìm mọi cách để hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao, điều đó quả là không đơn giản. Bởi khu đô thị ngày càng mở rộng,
đơn vị anh nằm cạnh dự án Làng Văn hoá các dân tộc Việt Nam, có con đường Cao
tốc chạy qua, đi đôi với nó là sự xâm lấn đất quốc phòng và như vậy thao
trường, bãi tập, doanh trại của đơn vị sẽ bị thu hẹp. Còn đâu khu vực để bộ đội
diễn tập chiến thuật, tập đánh thuốc nổ, bắn đạn thật, tập trinh sát luồn sâu,
tập đánh quân đổ bộ đường không của hàng vạn lượt người tham gia.v.v... Quả
thật Nguyễn Hưng Tân không ngại khó khăn, gian khổ, anh chỉ sợ không hoàn thành
nhiệm vụ hoặc để cấp trên hiểu sai về mình. Gần 30 năm là người lính anh phải
xa nhà liên tục, hết chiến trường miền Nam, lại ra mặt trận phía Bắc. Khi về
làm cán bộ của Nhà trường, cuộc đời và gia đình anh có ba sự kiện lớn, do bận
công tác anh điều vắng mặt. Lần thứ nhất khi đứa con trai đầu lòng của anh mất
khi cháu vừa tròn một tuổi, anh biết tin về đến nhà thì cháu cũng đã đi xa, cha
con không gặp mặt nhau được nữa. Lần thứ hai ông cụ thân sinh ra anh từ trần,
anh về cũng không kịp, trước khi ra đi ông cụ cứ mong hoài người con trai trở
về để cụ gặp mặt lần cuối nhưng không được. Lần thứ ba bà nội anh mất, vì bà
anh chỉ sinh được bố anh là con trai duy nhất, anh là cháu đích tôn, trước khi
nhắm mắt, cụ cũng chỉ muốn được gặp mặt người cháu yêu thương một lần cuối, 7
ngày sau anh về đến nhà thì chỉ còn gặp bà trong ảnh. May thay anh có người vợ
hiền, tảo tần, chăm chỉ, một cô giáo trường làng duyên dáng, đẹp người, đẹp
nết, ở nhà thay anh đảm đương vai trò của người con dâu hiếu thảo, nên các cụ
ra đi cũng thanh thản phần nào.
Con
người ai cũng có tình cảm gia đình, quê hương. Nguyễn Hưng Tân không loại trừ
điều đó, nhưng đã là người lính, người sỹ quan chỉ huy, anh đã vượt qua những
khó khăn trở ngại, gác lại tình cảm riêng tư để cùng với tập thể lãnh đạo, chỉ
huy đơn vị hoàn thành nhiệm vụ. Trong nhiều năm qua, anh đã cùng với Đảng uỷ
tiểu đoàn lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Tổ chức huấn luyện thành
công 2 khoá 17, khoá 18 đào tạo sỹ quan Dự bị và khoá 1 bồi dưỡng kiến thức
quân sự; huấn luyện có chất lượng 400 chiến sỹ mới năm 2001 và năm 2002; phục
vụ tốt các nhiệm vụ của Nhà trường, nhất là phục vụ hoàn thành xuất sắc các đợt
diễn tập tổng hợp khoá 64, khoá 65 đào tạo sỹ quan chuyên nghành và diễn tập
năm thứ 3 khoá 66, đào tạo Hoàn thiện sỹ quan
phân đội khóa7. Thông qua các nhiệm vụ này, các đơn vị thuộc quyền tiểu đoàn 10
đều được Nhà trường khen thưởng. Điều quan trọng là tiểu đoàn đã xử lý phù hợp,
đúng pháp luật các vụ vi phạm đất quốc phòng, giữ nguyên hiện trạng địa bàn
đóng quân, không để bị lấn chiếm hoặc xâm canh, xâm cư, bảo đảm giữ gìn thao
trường cho bộ đội luyện tập. Đến nay, doanh trai đóng quân của tiểu đoàn đã
khang trang, đẹp đẽ, có môi trường văn hoá lành mạnh... Điều đó mới thấy hết
được sự cố gắng của cán bộ, học viên, chiến sỹ Tiểu đoàn 10, trong đó
vai trò quyết định là tập thể Đảng uỷ, chỉ huy tiểu đoàn.
*
Đại đội bộ binh cơ giới 35 do Thiếu tá
Nguyễn Mạnh Hà đại đội trưởng và Đại úy
Đặng Đình Hưng chính trị viên chỉ huy, đóng quân trên 1 quả đồi thấp ở Đồng
Doi, với 3 dãy nhà mái tôn gọn gàng, xinh xắn. Đại đội quản lý và sử dụng mấy
chục đầu xe tăng, xe bọc thép chiến đấu phục vụ nhiệm vụ huấn luyện của Nhà
trường, sẵn sàng chiến đấu, làm nhiệm vụ A2 và làm trợ giáo phục vụ các bài tập
lái, các đợt huấn luyện chuyên ngành xe chiến đấu. Những chiếc xe tăng T54, xe
bọc thép BMP-1. PTR-60BP và xe Trinh sát ĐM-2 mặc dù đã qua nhiều năm sử dụng
nhưng vẫn sạch đẹp đỗ thành hàng ngay ngắn trong 2 dãy nhà xe. Các chiến sỹ lái
xe, pháo thủ đang cần mẫn lai chùi, bão dưỡng từng chi tiết cả bên ngoài và bên
trong của những chiếc xe yêu quý của họ. Qua những năm tháng lái xe hoàn thành
tốt nhiệm vụ, họ được Nhà trường chuyển thành quân nhân chuyên nghiệp để phục
vụ lâu dài trong binh chủng cơ giới này. Đại đội 35 là đơn vị luôn hoàn thành
xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, 5 năm liền được Nhà trường tặng danh hiệu
"Đơn vị quyết thắng", nhiều cán bộ chiến sỹ được khen thưởng hàng
năm. Thượng úy Ngô Minh Hưng-Đại đội phó Đại đội 35 là người gắn bó với đơn vị nhiều năm nay, anh quê ở Thụy Hương,
Chương Mỹ, Hà Tây được đào tạo qua Trường Sỹ quan Tăng-Thiết giáp về Đại đội
nhận nhiệm vụ. Với lòng yêu nghề anh đã có nhiều đóng góp xây dựng Đại đội vững
mạnh toàn diện, anh còn là cây sáng kiến, trong đó có sáng kiến hệ thống phanh
phụ dùng cho tập lái, huấn luyện trên xe PTR-60BP được ứng dụng rất hiệu quả
trong vận hành xe phục vụ huấn luyện được Nhà trường và Bộ Quôc phòng tặng bằng
khen và đang nghiên cứu 2 đề tài phục vụ trên xe bọc thép chiến đấu. Năm 2006,
Ngô Minh Hưng được công nhận là "Chiến sỹ thi đua". Chiến sỹ lái xe
tăng, thượng úy chuyên nghiệp Nguyễn Đình Trai đã có hơn 10 năm gắn bó với thao
trường Đồng Doi, trong phục vụ học viên tập lái xe bọc thép chiến đấu, trong
diễn tập bộ binh cơ giới, trong bắn đạt thật súng pháo trên xe, anh đều có mặt
phục vụ tận tình chu đáo. Nhận thức của Nguyễn Đình Trai là muốn hoàn thành
nhiệm vụ phục vụ huấn luyện tốt trước hết chiếc xe do mình phụ trách phải là xe
tốt, mà muốn có xe tốt người lái xe phải "yêu xe như con, quý xăng như
máu" chăm chút xe như chăm chút chính mình. Những ngày kỹ thuật anh leo
vào trong xe, chui xuống gầm xe kiểm tra tỷ mỉ từng tý, thay dầu vít ốc, kiểm
tra súng pháo, thiết bị thông tin. Những ngày bảo dưỡng xe, quần áo anh dính
đầy dầu mỡ, do vậy ánh hiểu xe như hiểu con người, nghe tiếng máy nổ anh biết
xe khỏe mạnh hay có vấn đề gì, chỉ cần máy nổ khác một tí là anh biết rằng ở
đâu đó đã có sự cố. Trai như một "mẹ hiền" và "thầy
thuốc" của xe, khi có nhiệm vụ là xe anh lên đường ra bãi tập được ngay.
nếu xe có trục trặc kỹ thuật gì Trai như thấy mình có lỗi với đơn vị.
Đài chỉ huy bắn ở Đồng Doi là ngôi nhà
3 tầng xây dựng từ khi còn các chuyên gia quân sự Liên Xô cũ sang giúp Nhà
Trường, lúc ấy Đài chỉ huy là một công trình kiến trúc đẹp và hiện đại nhất
vùng. Trên Đài chỉ huy lúc nào cũng có lá cờ đỏ tung bay trong gió trông rất
kiêu hãnh, tầng 2 và tầng 3 là lầu chỉ
huy bắn; tầng 2 rộng rãi với các phòng và hành lang thoáng mát là nơi dành cho
khách tham quan bắn và rút kinh nghiệm sau mỗi lần bắn đạn thật bằng các loai
súng bộ binh và hỏa lực xong; tầng trệt là các phòng chức năng dùng để hội họp,
thảo luận trong đó một số phòng để máy móc. Đứng trên tầng 3 của Đài chỉ huy
bắn có thể quan sát thấy cả một vùng rộng lớn của thao trường huấn luyện Đồng
Doi. Phía trước kéo dài ra xa là trường bắn; bên phải, bên trái là các thao
trường huấn luyện chiến thuật, huấn luyện trinh sát với các điểm cao 94, 69,
77,8, 134 kéo dài tới đỉnh của cao điểm 335 tiếp giáp với huyện Lương Sơn của
tỉnh Hòa Bình. Vùng thấp hơn là những bình độ thoai thải dùng để làm bãi tập
bắn và huấn luyện lái xe bộc thép chiến đấu cho chuyên ngành Bộ binh Cơ giới.
Chỉ huy Trường bắn Đồng Doi là Thiếu tá Nguyễn Văn Dũng, quê ở về nhận nhiệm vụ
đã được năm, thường xuyên gắn bó với
hơn 10 đồng chí Quân nhân chuyên nghiệp thợ sửa chữa và chién sỹ có nhiệm vụ
đảm bảo mọi mặt cho các đơn vị học viên vào bắn đạn thật và luyện tập tại thao
Trường Đồng Doi. Các chiến sỹ làm việc ở đây ai cũng xạm đen vì nắng gió thao
trường, điều lo lắng nhất đối với các anh là làm thế nào để đảm bảo an toàn
tuyệt đối cho bộ đội bắn cả ban ngày và ban đêm. Mùa hè thì nắng cháy da, cháy
thịt, mùa đông rét buốt thấu xương, có buổi phục vụ bắn đến nửa đêm đói rét,
nhớ nhà. Một mình ở vọng gác an toàn nhì ánh điện sáng xanh ở các nhà dân và
khu đô thị mới, những cám dỗ đời thường luôn thúc dục, nhưng họ đã vượt qua tất
cả để hoàn thành nhiệm vụ. Hết buổi bắn khi nhận được tín hiệu ở Đài chỉ huy
báo an toàn các anh mới được sách súng trở về doanh trại thì đêm đã khuy, lẳng
lặng, rửa chân chui vào giường nằm ngủ một mạch đến sáng nếu hôm đó không có
phiên gác của mình, sáng ra phải dậy xớm để chuẩn bị các mặt cho một ngày mới
phục vụ huấn luyện và bắn đạn thật của các đơn vị tiếp theo. Nhiều hôm phải
phục vụ các đơn vị học viên bắn đạn thật ban ngày đến 12 giờ trưa, ban đêm đến
hơn 1 giờ sáng mới xong.
Trung đội có chưa đầy 20 người, số
chiến sỹ mới nhập ngũ nhiều hơn lính cũ, các anh được giao nhiệm vụ bảo vệ thao
trường, nên phiên hiệu đơn vị cũng đơn giản gọi bằng "Trung đội Bảo vệ
thao trường" trực thuộc Tiểu đoàn 10. Bằng ấy con người nhưng được gia
nhiêm vụ bảo vể cả khu vực Đồng Doi với
561,5 hecta và giữ đất quốc phòng, quả là nhiệm vụ nặng nề, trung đội phải căng
đội hình ra mới hoàn thành được nhiệm vụ. Đóng quân cách xa sự chỉ huy của tiểu
đoàn, do trung úy Nguyễn Đức Hiếu làm trung đội trưởng, đảm bảo gác đêm trên 3
chốt, mỗi chốt 2 người, ban ngày tuần tra 4 ca sáng, trưa, chiều, tối, gồm 1 tổ
3 người đi 1 vòng tuần tra khoảng gần 10 Km 1 vòng, phương pháp đi tuần tra
không theo quy luật, phát hiện các hiện tượng lấn chiếm đất quốc phong vi phạm
an toàn thao trường, kịp thời ngăn chặn không để xảy ra các hiện tượng nảy
sinh.
*
Mênh mang Đồng Doi, từ thao trường này
lớp lớp học viên tốt nghiệp ra trường như những cánh chim tung cánh toả đi khắp
nơi trên khắp các chiến trường và mọi miền Tổ quốc, ở đó họ đã công tác, huấn
luyện, quản lý đơn vị và chiến đấu kiên cường, nhiều người đã lập nên những
chiến công vang dội. Trong số trên 8 vạn cán bộ ra trường về các đơn vị trong toàn quân, có hàng vạn
đồng chí tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các mặt trận, hầu hết họ
đã trở thành những sĩ quan chỉ huy giỏi, nhiều người đã chiến đấu quên mình vì
độc lập, tự do của Tổ quốc, mang lại niềm vinh quang cho đất nước, Quân đội và
cho Nhà trường. Ngay từ những ngày đầu đánh Mỹ, trong trận ấp Bắc nổi tiếng có
Nguyễn Triết Minh (tức Bảy Đen)-một cán bộ được đào tạo tại Trường sĩ quan Lục
quân 1 đã chỉ huy một đại đội chiến đấu dũng cảm bẻ gãy nhiều đợt tiến công của
địch, góp phần làm phá sản chiến lược tìm diệt bộ đội chủ lực Việt Nam của
chúng. Nguyễn Triết Minh đã anh dũng hy sinh để lại nhiều tiếc thương và ý chí
quyết đánh, quyết thắng giặc Mỹ cho đồng chí, đồng đội. Trong trận chiến đấu
đánh chiếm cầu Quảng trị, thiếu uý Nguyễn Văn Thoả - một cán bộ của Nhà trường
đi thực tế chiến trường đã chỉ huy một trung đội luồn sâu nổ súng tiêu diệt bốt
giữ cầu Quảng trị của Mỹ Nguỵ, nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc, Nguyễn Văn Thoả đã anh dũng hy sinh, vĩnh
viễn nằm lại trên mảnh đất Quảng Trị anh hùng. Và những tấm gương hy sinh của
Phạm Ngọc Khánh, Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Kim Tuấn... rất nhiều đồng chí khác đã anh dũng chiến đấu hy
sinh trở thành những liệt sỹ vô danh, một số đồng chí đã cống hiến một phần
xương máu của mình cho Tổ quốc, có đồng chí
bị ảnh hưởng hậu quả chất độc mầu da cam và con cháu của họ phải gánh chịu,
chính họ là những học viên đào tạo tại
Nhà trường mãi mãi trở thành bất tử. Tổ quốc này mãi mãi không quên ơn
các anh hùng liệt sỹ đó. Cũng từ Thao trường Đồng Doi ra đi, gần 200
đồng chí học viên đã phấn đấu trở thành tướng lĩnh, hàng chục nghìn đồng chí là
cán bộ trung cao cấp, giữ những cương vị trọng trách của Đảng, Nhà nước, Quân
đội; 27 đồng chí được tuyên dương danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân và anh hùng lao động; 12 đồng chí được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú,
một số người trở thành các nhà Khoa học, văn nghệ sĩ, vận động viên xuất sắc
phá kỷ lục Quốc gia và Quốc tế về các môn thể thao quân sự.
Nguyễn Văn Lai
Dành cho thiếu nhi:
CHÚ CHÍCH CHOÈ CÓ
GIỌNG HÓT HAY
––––
DATE
là chú chim chích choè mới rời tổ và chập chững biết bay, chú ta có giọng hót
tương đối khá. Mỗi sáng sớm chú đậu trên cành xoan trước nhà cất cao giọng hót,
tiếng hót của chú bay khá xa như báo hiệu và đánh thức những ai còn ngái ngủ.
Bộ lông của DATE bóng mượt, trước ngực luôn đeo một chiếc tạp dề trắng mà bố mẹ
chú sắm cho từ khi còn nhỏ, mỗi khi cất tiếng hót chú ưỡn ngực, kiễng chân,
vươn cổ để bật ra những tiếng huýt gió cao vút, trông mới kiêu hãnh làm sao,
xứng đáng là một chú chim đang trưởng thành không cần sự trợ giúp của chim bố
mẹ nữa.
DATE
khác hẳn với những chú chim bình thường khác, bởi chú ta có tiếng hót vượt trội
so với chúng bạn, nên chú tự hào lắm. Trước khi hót bao giờ chú cũng chọn cây
cao nhất, cành cao nhất để đậu, không bao giờ chịu kém đồng loại, khi đã hót là
chú hót thật nhiều, hót liên tiếp, hót say mê, hót quên cả những nguy hiểm có
thể cận kề. Trong tiềm thức của chú, chỉ có giọng hót của mình là hay nhất, những
chú chim khác không thể nào theo kịp. Chú nghĩ, giọng của mình chỉ có thể sánh
với các loài chim khác như chim vàng anh hoặc chim hoạ mi mà thôi. Từ đó chú
lại càng hót nhiều, mà ít chịu tập bay, chuyền cành để bắt sâu bọ, tự nuôi sống
mình, dù đói chú cũng chỉ đợi chờ chim bố mẹ kiếm mồi về mớm cho mà thôi. Tuy
đã rời tổ khá lâu, nhưng DATE vẫn được bố mẹ theo sát hướng dẫn dìu dắt tập
bay, tập bắt sâu, chứ chú chưa thể tự mình bay đi kiếm sống được. DATE chưa bao
giờ nghĩ rằng một ngày kia chim bố mẹ sẽ rời xa chú, để cho chú có cuộc sống tự
lập, một mình kiếm sống nuôi thân thì sẽ khó khăn biết chừng nào. Cứ thế, chú
quá tự tin, cứ sáng sớm DATE lại rời khỏi tổ chuyền lên cành xoan cao nhất, ưỡn
ngược, vươn cổ có chiếc tạp dề trắng hót vang, làm ồn ào cả một góc làng quê.
Đông
Trung là một làng nhỏ, có bờ tre, giếng nước, sân đình; có tụi trẻ chăn trâu
đen thủi suốt ngày chạy nhảy ngụp lặn ì ùm trên dòng sông nhỏ cạnh làng. Tuy
làng nhỏ nhưng cây cối um tùm, làng quê trù phú, no ấm, hoa trái thơm tho, nơi hội tụ chim chóc đông vui,
nhưng đông nhất vẫn là chim sẻ đồng. Chim
chích choè như DATE không nhiều, còn như loài vàng anh, hoạ mi, sáo sậu, chèo
bẻo lại càng ít. Tuy nhiên, tụi trẻ chăn trâu làng Đông Trung cũng rất ghê gớm,
đứa nào cũng có cây súng cao su đeo lủng lẳng ở cổ. Là chim mới lớn nhưng DATE
đã rất sợ loại đạn từ súng cao su của lũ trẻ bắn tới.
Khi còn bé, chim bố mẹ thường dạy dỗ
và căn dặn DATE hễ trông thấy lũ trẻ chăn trâu đeo súng cao su thì hãy tránh
cho xa, đùng gần chúng nó mà mất mạng như chơi. Tuổi trẻ phải tập hót và hót
cho hay, nhưng đừng có hót say mê quá mà quên đi những nguy hiểm luôn rình rập.
Khi cất tiếng hót thì cũng phải cảnh giác, đề phòng con người, nhất là những
viên đạn bay ra từ súng cao su của lũ trẻ. Tốt nhất là hãy chịu khó tập bay để
bay giỏi, bay xa, khi đậu trên cây cần
phải chuyền cành liên tục, thường xuyên thay đổi vị trí để tránh đạn bắn
lén, không nên đậu một chỗ khá lâu mà nguy hiểm lắm đấy. Bố mẹ dạy thế, nhưng DATE
cứ bỏ ngoài tai, chú ta vẫn cho rằng loài chim chính choè đã hót thì phải hót
cho ra trò, hót say mê, hót vang trời, thể hiện rõ tính oai phong của mình, chứ
đừng có hót choe choé như mấy anh chèo bẻo, tuy các anh ấy có sức mạnh của loài
chim dũng cảm nhưng giọng hót thì không thể mê được, làm sao mà bằng giọng của
loài chim chích choè. DATE thầm nghĩ, mình sẽ là một chú chim đi tiên phong
trong việc tôn vinh giọng hót của loài chim chích choè, để cho khu vườn chim
Đông Trung và thế giới loài chim biết được tiếng hót hay và sức mạnh của loài chim
và dòng họ nhà mình. Chứ cứ như loài chim sáo, chim chèo bẻo lúc nào cũng khoác
bộ áo đen xì nhưng vẫn được người đời kính trọng, tôn vinh. Còn loài chim chích
choè của DATE hơn hẳn 2 loài chim kia nhiều thứ
như: hót hay, chịu khó, chăm chỉ dậy xớm, quần áo bảnh bao, có chiếc tạp
dề trắng trước ngực nhưng vẫn bị đánh giá thấp hơn 2 loài chim đó, nghĩ mà tức
anh ách. Vậy thì bây giờ sứ mệnh của DATE là phải lấy lại thương hiệu cho Chích
choè. Nghĩ vậy, nhưng DATE rất ngại tập bay, ngại chuyền cành và ngại kiếm mồi,
chú ta chỉ thích hót, vì khi hót sẽ thu hút được nhiều chúng bạn. Thế là chú ta
không bao giờ nghe lời dặn dò, dạy dỗ của bố mẹ nữa, với chú chỉ có ăn và hót
là 2 điều thích thú nhất. Vì DATE đang tuổi mới lớn, chưa thực sự trưởng thành
luôn được bố mẹ cưng chiều nên chú càng lấn tới.
Cây xoan mà thường ngày DATE vẫn đậu
để cất cao giọng hót cũng cảm thấy rất vui khi có chú đến hót, nếu vắng DATE
thì cây rất buồn. Mùa đông năm ngoái, khi chưa có DATE cây đứng lặng im, khẳng
khiu trơ cành, không hề có tiếng chim líu ríu, lộc không nẩy mầm, lá chưa xanh
được nói chi đến hoa. Thế mà mùa hè năm nay, khi DATE đến cây xanh tươi mầu lá,
quả nặng chĩu cành, nhìn xa như một mảng mầu tươi mát vẽ lên không trung, chim
chóc rủ nhau kéo về, phải chăng tiếng hót của DATE mang về tất cả. Nghĩ đến
điều đó, DATE tự tin lắm, chú ta nghĩ rồi đây loài chim chích choè sẽ là chủ
của khu vừon chim Đông Trung, còn DATE sẽ là chủ sở hữu cây xoan cao to này để
hàng ngày cất cao tiếng hót, chào đón bình minh.
Đối với lũ trẻ chăn trâu, những ngày
hè là những ngày thích thú nhất, chúng được tự do chạy nhảy, được tắm sông,
được bắn chim, bắt sáo. Lũ chim ở vườn Đông Trung hễ cứ thấy bóng bọn trẻ chăn
trâu là nháo nhác bay đi, con nào mà chậm chân là có thể bị sứt đầu mẻ trán và
mất mạng. Riêng DATE thì nghĩ khác, chú cho rằng tiếng hót của mình hay đến như
vậy, chắc rằng lũ trẻ chăn trâu sẽ không đụng đến mình, chúng sẽ cho mình hót
để chúng nghe cho vui tai. Một buổi trưa khi DATE đang say sưa hót bản nhạc
thường ngày của nó thì có một lũ trẻ chăn trâu tới, chúng lom khom đến gần cây
xoan nơi DATE đậu. Không hiểu chúng làm gì nhỉ? tại sao trong tay đứa nhào cũng
lăm lăm khẩu súng cao su. Đến gần gốc cây, bất chợt chúng giương súng nhằm DATE
bắn tới tấp. Úi chà, tý nữa thì mất mạng, may mà DATE kịp cúi đầu, rụt cổ lại,
thế mà chúng vẫn bắn. Phải bay đi thôi! DATE nghĩ thế và cất cánh bay, mới bay
được một đoạn không xa, DATE cảm thấy cánh mình đã mỏi rã rời, lại phải đậu
xuống một cành bưởi thấp, thế mà lũ trẻ vẫn đuổi theo nã đạn về phía chú. Bay
thôi, khẩn trương kẻo mất mạng, vừa bay chú vừa cất tiếng gọi bố mẹ nhưng chẳng
thấy bố mẹ đâu. Mỏi cánh DATE lại phải đậu xuống một cành cây. Chưa kịp nghỉ
ngơi và hoàn hồn thì lũ trẻ lại xuất hiện, hình như chúng phát hiện ra DATE là
chú chim đang tập bay nên chúng không bắn nữa mà quyết định bắt sống. DATE lại
cất cánh bay nhưng khoảng cách bay của chú cứ ngắn dần, ngắn dần, phía sau bọn
trẻ đuổi gấp lắm. Vừa đậu xuống cành cây chú lại phải cất cánh bay đi, mà có
bay nổi nữa đâu, thực ra chú ta đang chuyền từ cành này sang cành khác, quả là
nguy hiểm đã cận kề. Vòng vây của lũ trẻ từ từ khép chặt, mấy lần DATE bị vồ
trượt, chú ta lại cố hết sức cất cánh bay được một đoạn. Nhưng rồi mỏi quá, chú
đành phải dừng lại và một cánh tay của đứa trẻ chăn trâu vươn ra vồ gọn được
chú. DATE được đem về nhốt trong một chiếc lòng tre đan tạm, cậu bé cho DATE
uống nước, ăn cơm-thứ thức ăn mà trong đời DATE chưa một lần được thưởng thức.
Thời gian trôi đi, đói quá DATE đành phải nuốt thứ thức ăn có hạt mầu trắng
nhạt phèo để sống. Từ nay DATE phải sống một cuộc sống tù túng, không được bay
cao lên cành xoan để vươn cổ hót như mọi khi. Giờ này sống trong lòng tre, DATE
nhảy cũng còn khó chứ nói chi đến bay, lâu ngày DATE cũng quên luôn cả hót. Chú
ta thui thủi, âm thầm sống qua ngày và nuối tiếc những ngày tháng tự do phóng
khoáng một mình trên cây cao tha hồ ca hót. Giá
DATE biết nghe lời cha mẹ, chịu khó tập bay, tập chuyền cành, thì khi gặp bọn
trẻ chăn trâu đuổi bắn thì chú sẽ chú bay đi, thì đâu đến nỗi nào. Từ nay, bầu
trời xanh cao là vậy, vườn cây tươi tốt là kia không còn là của DATE nữa, chú
ân hận thực sự và nước mắt ứa ra từ khi nào chú đâu có biết.
Nguyễn Văn
Lai
HT 2CA-13 Sơn Lộc, Hà Tây
(Trường
Sỹ quan Lục quân 1)
Dành cho thiếu nhi:
CHÚ VOI ĐẦU ĐÀN
BƯỚNG BỈNH
––––
Khi rừng Tánh Sơn bị tàn phá nặng, KATA cùng đàn
voi không còn nơi trú ngụ, chúng rủ nhau xuống phá phách nương rẫy của đồng bào
các dân tộc trong bản. Đã có một số lều lán trông coi nương rẫy đã bị quật đổ,
nương lúa, nương sắn, rẫy bắp, vườn chuối bị tàn phá nặng nề… KATA căm ghét con
người, bởi vì họ mà khu rừng của loài voi sinh sống dần bị thu hẹp. Cứ ngửi
thấy mùi mồ hôi của lũ người là KATA cùng đồng loại cảm thấy ớn lạnh và đáng ghét
biết bao. Rừng càng bị phá, địa bàn kiếm ăn của bầy voi rừng càng gặp nhiều khó
khăn hơn, sự căm ghét con người càng tăng lên. Đàn voi của KATA cứ lui mãi, lui
mãi đến khi không còn lui được nữa, đường cùng KATA dẫn đàn voi xuống nương
rẫy, làng bản phá phách. Thế là chúng không còn thấy sợ con người đáng ghét
nữa, khi gặp chúng sẵn sàng tấn công vào bát cứ ai. Hoá ra, con người cũng
chẳng có gì đáng sợ, khi gặp KATA và đồng loại, họ chạy thục mạng, có chống lại
thì sức yếu đuối cũng chẳng làm được gì loài voi rừng. Được thể KATA và bầy đàn
liên tục tấn công con người ở các lán trại trên nương. Nhằm những lúc ban đêm,
họ ngủ say KATA và bầy đàn xông vào lán lục lọi đồ ăn, dẫm đạp lên người và vật
dụng, dùng vòi quật đổ lán trại, đập phá xoong nồi, xé rách quần áo, chà sát
nơi ở của họ. Và thế là họ sợ, bỏ cả lán trại chạy về bản, ban ngày
không dám đi làm nương nữa, ban đêm không dám ngủ nơi chòi canh. Vì vậy, đàn
voi tha hồ phá phách, nganh ngược, tung hoành nơi bìa rừng mà trước kia chúng
không bao giờ dám đến.
Cứ
tưởng cuộc sống dễ chịu như thế sẽ kéo dài mãi mãi. Nhưng con người quả là tàn
bạo chứ không nhút nhát, yếu đuối chút nào, họ bắt đầu đoàn kết chống lại KATA
và bầy đàn. Dân bản tập hợp nhau lại dùng gậy gộc, trống mõ, thanh la xua đuổi
bọn chúng, ra quân rất rầm rộ, nhưng hiệu quả chẳng được là mấy. Rồi họ dùng
súng bắn chỉ thiên đì đoàng làm giật mình lũ voi, đạn vọt lên trời, chẳng hề
thấy bay về phía chúng, không chú voi nào bị thương. Lũ voi nghe tiếng súng nổ
nhiều, quen dần và chẳng thấy sợ hãi nữa. Làng bản, nương rẫy, chòi canh, ruộng
lúa tiếp tục bị tấn công, thế mà lượng thức ăn cho KATA và bầy đàn trong tự
nhiên cứ dần dần bị cạn kiệt, nguy cơ bị đói đang ngày càng trông thấy và đang
trở thành hiện thực. Càng đói bầy voi càng phá phách, đồng bào không sản xuất
được, con người và lũ voi luôn đối chọi nhau, ngày một thêm khốn khổ.
Một
buổi sáng, khi mặt trời vừa ló, hắt những tia nắng đầu tiên lên khu nương dẫy
mới bị đàn voi tàn phá, KATA và đồng bọn trông thấy một tốp người lạ từ trên
những "con voi" không có vòi, thân thể to hơn bọn chúng, có tiếng kêu
khèn khẹt mà người ta thường gọi là xe ô tô tiến về phía bầy voi. Họ mang súng
và những chiếc thừng to, chắc là bọn lâm tặc lại đi phá rừng đây, thật là đáng
nghét. KATA chẳng sợ bọn này, có súng, chúng chỉ dám bắn doạ mà thôi. Súng đạn
của bọn lâm tặc chỉ dùng để chống lại những người bảo vệ rừng thường gọi là
kiểm lâm, chứ đâu có dám bắn lũ voi. Hiện nay, voi đang là động vật quý hiếm, ở
đất nước này đàn voi có còn được mấy cá thể như KATA đâu mà sợ con người sát
hại, nên bọn chúng cứ ngông nghênh đi lại kiếm ăn, chẳng có tí chút gì là sợ
hãi cả. Bỗng có tiếng nổ vang lên, một, hai, ba…rồi nhiều tiếng súng, chắc lại
bắn doạ đây mà, sợ gì !
Bất
chợt, KATA thấy hơi nhói và ngứa ngáy ở bên sườn, hay là trúng đạn của con
người, nếu trúng đạn mà như thế này thì chẳng đáng sợ một chút nào. KATA cứ
điềm tĩnh dùng vòi ủi đất lật từng củ sắn non đưa vào miệng nhai rau ráu. Thế
rồi tự nhiên KATA thấy chóng mặt, nương sắn quay cuồng, khu rừng và những quả
núi trước mặt cứ nghiêng nghiêng như xắp đổ. KATA vươn vòi cố giống lêng gọi cả
đàn voi rút vào rừng sâu Tánh Sơn, nhưng bốn chân của KATA không thể nhấc nổi.
Mặt đất quay cuồng, mắt chú ta tối xầm lại, rồi ngã vật trên nương và thiếp đi
chẳng biết gì nữa. KATA và đàn voi đã bị trúng đạn có thuốc mê.
Tỉnh
dậy, KATA thấy mình và bầy đàn nằm ngôn ngang trên một khu rừng lạ, chú ta ể
oải đứng lên dùng vòi đánh thức từng cá thể trong đàn tỉnh giấc, rồi cả đàn
đủng đỉnh rút vào rừng sâu. Quả là cánh rừng mới rộng quá, cây cối to hơn, rừng
rậm hơn, lượng thức ăn chắc cũng nhiều hơn. KATA dẫn bầy đàn tới một con suối
nước chảy róc rách tìm nước uống và trú ngụ ở đó. Cánh rừng Đắc Lâm nghe tên
quen thuộc, nhưng KATA chưa bao giờ đến, nghe nói ở rừng này đã có rất nhiều cá
thể và bầy đàn voi đã ở. Đàn voi của KATA bắt đầu vào cuộc sống mới, nguồn nước
đã có sẵn tha hồ uống. Cả đàn thấy đói và cùng nhâu đi tìm thức ăn, chao ôi cả
một rừng chuối xanh rờn mắt mắt, KATA và bầy đàn hối hả ăn. Tuy nhiên, chuối ở
khu rừng này nhạt quá, nó không đậm đà như chuối ở rừng Tánh Sơn, quả là khó
nuốt. Đói bụng chúng cứ nuốt bừa, ăn để sống. Khi cả đàn đang mải mê cố nuốt
những noãn chuối non cho ấm bụng, bỗng nghe rào rào, ầm ầm, KATA nhìn lên thấy
một đàn voi lớn đang xông thẳng vào đàn voi của KATA tấn công. Thế yếu, cả đàn
của KATA rút chạy ra bờ suối lánh nạn, chờ đêm tối chúng mới dám đến vườn chuối
kiếm ăn. Nhiều lần KATA đi sâu vào rừng tìm nơi sống tốt hơn, nhưng cứ mỗi lần
ra khỏi bờ suối là đàn voi của KATA lại bị những con voi rừng bản xứ tấn công
dữ dội, làm cho cả đàn lại phải quay về nơi xuất phát. Từ đó, hàng ngày chúng
chỉ được quanh quẩn nơi bờ suối, rồi đêm đếm được ăn món quan quen thuộc là
những cây chuối nhạt phèo của đàn voi rừng bản xứ chưa dùng hết. Cuộc sống khắc
nghiệt quá, đàn voi của KATA càng ngày càng khổ sở, gầy đến rơ xương, một số
voi con đã kiệt sức, vì voi mẹ không còn sữa cho con bú nữa. Ngày qua ngày, lác
đác đã có những chú voi gục ngã và lìa bỏ thế gian.
Phát hiện ra sự nguy hiểm của đàn voi,
do không quen với vùng đất mới, khu rừng mới, đàn voi có nguy cơ bị xoá sổ, con
người liền mang đến cho lũ voi thức ăn để cứu chúng. Cơ thể voi to là vậy, rất
cần một lượng thức ăn lớn. Những ngày đầu, con người mang theo rất nhiều những món hợp khẩu vị, tạm đủ co cả đàn, nào
mía, nào quả chuối chín, nào cám, nào ngô, rồi sắn khoai đủ cả. nhưng sau cứ ít
dần, thưa dần, đàn voi to tướng ăn chả thấm vào đâu. Chắc là do giá cả tăng
cao, hàng hoá khan hiếm hay con người bớt xén khẩu phần của đàn voi so với dự
toàn ban đầu, nên đàn voi lại đói vẫn hoàn đói. Có thể nói chúng không thể
thích nghi với vùng rừng núi mới này được.
Bất chợt, KATA và bầy đàn nhớ lại vùng
rừng Tánh Sơn quê hương của chúng, ở đấy cuộc sống mới phóng khoáng làm sao,
rừng tuy có chặt chội một tý nhưng cuộc sống thì thật tuyệt biết bao. KATA chợt
thấy ân hận vô cùng, giá như cậu ta và bầy đàn đừng có ngang tàng phá phách
quá, đừng có đụng đến lũ người tàn bạo và đáng nghét kia thì đâu đến nỗi nào.
Nếu đàn voi biết chịu đựng, không tham ăn quá mức, đừng phá nương, phá rẫy,
quật người, phá nhà quá đáng, thì chắc là chưa phải chuyển đến chỗ ở mới như
bây giờ, Nghĩ lại thì đã quá muộn rồi, KATA chỉ còn nuối tiếc, nước mắt chảy
dài, cậu ta nhới lại những ngày tươi đẹp đã qua.
Nguyễn Văn
Lai
HT 2CA-13 Sơn Lộc, Hà Tây
MẸ VẪN ĐỢI BA VỀ !
––––
Chúng
tôi đến thăm bà vào một ngày đẹp trời, cách đường quốc lộ 21A không xa, ngôi
nhà nhỏ của bà nằm trong một khu vườn đẹp, xanh tươi mầu lá, quanh vườn là
những cây ăn quả toả bóng mát dịu dàng thuộc thôn Đoàn Kết, xã Cổ Đông, thành
phố Sơn Tây-Hà Nội. Chỉ có bà và đứa cháu ngoại ở với nhau nên rất đầm ấm, yên
vui. hai người con gái của bà đã trưởng thành và yên bề gia thất. Các chị lấy
chồng cùng công tác một cơ quan, ở gần nhà nên thường xuyên đưa các cháu về
thăm bà nên đỡ đi nhiều nỗi cô đơn khi tuổi già sức yếu. Thấy chúng tôi đến, bà
vui vẻ mời vào nhà, sai đứa cháu ngoại lấy nước mời khách uống. Bà không ngạc
nhiên khi biết chúng tôi là khách của Trường Sĩ quan Lục quân nơi các con bà
công tác đến thăm như những lần trước. Lúc biết chúng tôi đến với bà không
những để hỏi thăm sức khoẻ mà còn để lấy tư liệu viết về truyền thống gia đình
của bà đã có những ngày tháng gian khổ cống hiến nhiều cho quân đội và cho nhà
trường. Được hỏi về những ngày tháng đó, tự nhiên bà lặng đi giây lát rồi phấn
chấn hẳn lên, bà hồi tưởng lại và say sưa kể, trí óc minh mẫn, giọng nói khoẻ
khoắn và nhiệt tình, bà kể như lật giở từng trang, từng trang hồi ức chợt hiện
về trong niềm vui xen lẫn sự bồi hồi, nhớ tiếc. Bà nhớ tới những ngày tháng gia
khổ, ông bà đã vượt mọi khó khăn, cống hiến sức lực và trí tuệ nhỏ bé của mình
vào sự nghiệp giáo dục-đào tạo của Nhà trường. mắt bà sáng lên khi kể tới người
đồng chí đồng đội, người bạn đời của bà trong những năm tháng giữa cuộc kháng
chiến chống Mĩ cứu nước đó.
Mối
tình của lính
Năm
1954 Nguyễn Văn Mười-chàng trai Hương Xuân, Hương Trà, Thừa Thiên Huế từ chiến
trường miền Trung khói lửa được ra Bắc tập kết. Đơn vị của Mười về đóng quân ở
xã Thạnh Thanh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, nơi đây có phong trào cách mạng
phát triển rất mạnh, ở thôn nào, xã nào cũng có đội dân quân và hội phũ nữ phát
hoạt động tích cực. Nguyễn Văn Mười được bố trí ở nhà cô chủ tịch hội phụ nữ xã
Thạch Thanh Trịnh Thị Mảy. Thời ấy, tình quân dân thật là nồng thắm, bộ đội
thường đóng quân trong nhà dân, nhân dân rất yêu quý bộ đội. Mỗi khi có bộ đội
về làng, nhà nào cũng nô nức muốn được đón các chú về ở. Lần ấy, được đón đoàn
bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc, xã Thạch Thanh lại càng nhộn nhịp, xã giao cho
hội phụ nữ đón tiếp, xắp xếp chỗ ở cho từng tiểu đội, trung đội. Là cán bộ
phong trào Trịnh Thị Mảy hăng hái tổ chức các công việc, chị gương mẫu vận động
gia đình và bà con đón bộ đội về nhà. Gia đình chị được đón một tổ ba người
trong đó có chiến sĩ Nguyễn Văn Mười. Những ngày tháng đóng quân trên đất Hà
Tĩnh, tình yêu giữa người chiến sĩ xứ Huế và cô hội trưởng hội phụ nữ xã Thạch
Thanh, Hà Tĩnh nảy nở. Mối tình đó vượt qua những khó khăn, rào cản của phong
tục tập quán địa phương, vượt qua những khoảng cách về địa lí, quê hương, những
ngăn cách Bắc-Nam thời kì còn giới tuyến. Mối tình đó ngày càng nồng thắm, gắn
kết nhau hơn. Nhưng nhiệm vụ của người chiến sĩ phía trước rất nặng nề, là
nguồn cán bộ quân sự, Nguyễn Văn Mười được cấp trên cử đi đào tạo sĩ quan tại
Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Họ bịn rịn chia tay nhau, hẹn ngày gặp lại, mặc dù
chưa biết bao giờ Mười có thể trở lại quê hương Hà Tĩnh mến yêu. Mùa hè năm
1956, anh lên đường sang đất Bạn-nơi đóng quân của Nhà trường quân sự đầu tiên
của Quân đội ta để học tập Khoá 9 Võ bị Lục quân- khoá học chính quy dài hạn
của Quân đội.
Vốn
đã trải qua chiến trường, được chứng kiến và tham gia nhiều trận chiến đấu ác
liệt, khi ra Bắc học tập, Nguyễn Văn Mười thấm thía trước sự mất mát hy sinh
xương máu của đồng chí, đồng đội và đồng bào. Được tận mắt thấy cảnh bắn giết
dã man tàn bạo của bọn giặc cướp nước và bè lũ tay sai bán nước. Nguyễn Văn
Mười nung nấu đến một ngày nào đó lại được trở về miền Nam chiến đấu trên chính
quê hương mình trả thù cho đồng bào. Anh hiểu, đi đào tạo sĩ quan là điều kiện
rất tốt cho anh học tập, tiếp thu kiến thức về chiến thuật, kỹ thuật quân sự để
chuẩn bị cho cuộc chiến đấu sau này. Nhập trường, Nguyễn Văn Mười nhanh chóng
hoà nhập và lao vào học tập, rèn luyện, anh thấy quý giá vô cùng những năm
tháng hoà bình trên miền Bắc và trên đất bạn.
Ở
Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn vất vả và gian khổ là thế, nhưng hình ảnh người con
gái Hà Tĩnh-Cô Chủ tịch Hội phụ nữ xã luôn trong trí nhớ của anh. Thời ấy,
thông tin liên lạc cực kì khó khăn, họ chỉ liên lạc với nhau bằng những bức thư
tình, nhưng nhiều khi cũng bị thất lạc và gián đoạn. Càng xa nhau, càng khan
hiếm tin tức về nhau mối tình ấy càng nồng thắm. Mỗi bức thư, mỗi dòng tin nhắn
qua người thân bạn bè lại trở thành nỗi khao khát gấp đôi. Nam 1959 kết thúc
khoá học, Nguyễn Văn Mười cùng đồng đội trở về nước chuẩn bị cho cuộc chiến đấu
mới. Do có kết quả học tập tốt Mười được giữ lại trường làm giáo viên Khoa Xạ
kích, lúc này Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn đã chuyển về nước đào tạo. Nguyễn Văn
Mười và Trịnh Thị Mảy đã tìm về với nhau và xây dựng gia đình. Đám cưới của cô
thôn nữ Hà tĩnh- cô hội trưởng hội phụ nữ xã và một sĩ quan trẻ được tổ chức
vui tươi, đầm ấm trên quê hương Thạch Thanh với tinh thần "vui duyên mới,
không quên nhiệm vụ". Sau đó Mảy theo chồng ra đơn vị và được tuyển vào
làm nhân viên nuôi quân của Nhà trường. Một năm sau cô con gái đầu lòng, kết
quả của mối tình xa cách, thuỷ trung, trong trắng, nồng thắm ra đời được đặt
tên là Việt Hoa (Nguyễn Thị Việt Hoa) mang đậm dấu ấn và có ý nghĩa của tình
hữu nghị, đoàn kết Việt Nam-Trung hoa và là kỷ niệm không thể phai mờ của những
ngày xa Tổ quốc. Việt Hoa ra đời là niềm hy vọng lớn lao, niềm vui tột đỉnh của
đôi vợ chồng sĩ quan trẻ trong niềm chung vui của bạn bè, đồng chí và quê
hương. Trong gia đình nhỏ của Mười ở khu tập thể Nhà trường luôn đầy ắp niềm
vui và tiếng cười trẻ thơ và họ thực sự hạnh phúc. Mỗi ngày, Mười lăn lộn trên
thao trường với những bài xạ kích súng ngắn, súng dài, lựu đạn, bọc phá… mồ hôi
nhễ nhại, nhưng khi về gia đình được gặp con gái nhìn đôi mắt đen tròn, ngơ
ngác, ngây thơ của bé Việt Hoa anh như quen hết sự mệt nhọc vất vả đó, niềm tin
và ước mơ luôn tràn ngập.
Cuộc
sống trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa của những năm tháng hoà bình mới hạnh phúc
làm sao. Nhưng nửa nước Việt nam vẫn còn trong xiềng xích của Mỹ Nguỵ, là sĩ
quan chỉ huy Mười lại nhận nhiệm vụ mới. Ngày 27 tháng 12 năm 1961, Nguyễn Văn
Mười được lệnh lên đường đi chiến trường B. Chia tay vợ và con gái anh theo
đoàn cán bộ đi B tập trung tại Xuân Mai (Chương Mĩ, Hà Tây cũ) để chuẩn bị lên
đường. Lúc này trong bụng vợ anh đã có một mần sống thứ hai hình thành. Khi
chia tay vợ con lên xe Nam tiến Nguyễn Văn Mười hẹn ước với vợ nếu sinh con
trai sẽ đặt tên là Thanh Huế để nhớ về quê hương Thừa Thiên Huế của anh, nếu
sinh con gái đặt tên là Xuân Mai để nhớ những ngày chia tay đầy kỷ niệm ở địa
danh Xuân Mai nơi khởi đầu của chuyến đi B hẹn ngày hoà bình trở lại. Sau này
chị sinh con gái thứ hai đặt tên là Nguyễn Thị Thanh Huế để nhớ về quê chống Xứ
Huế yêu thương mà chị chưa một lần được đặt chân tới.
Vào
chiến trường
Rời
Nhà trường đào tạo sĩ quan, Nguyễn Văn Mười được điều về Quân khu Trị Thiên và
chiến đấu trên chính quê hương của mình, anh tham gia nhiều trận đánh Mĩ-Nguỵ ở
Cồn Tiên, Dốc Miếu, ở thành cổ Quảng Trị. Đến đầu năm 1967 được điều về làm
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 40, Trung đoàn bộ binh 1 thuộc Sư đoàn 2, Quân khu
5. Lúc này Trung đoàn 1 do đồng chí Nguyễn Chơn làm Trung đoàn phó kiêm tham
mưu trưởng (sau này đồng chí Nguyễn Chơn là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân
dân- Thượng tướng-Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng). Tiểu đoàn 40 của Nguyễn Văn Mười
trong đội hình của Trung đoàn 1 đã chiến đấu nhiều trận, trong đó có trận tiến
công cứ điểm Quang Thạnh diễn ra vào ngày 15 tháng 2 năm 1967 là một trong
những trận chiến đấu thắng lợi có hiệu xuất diệt địch cao.
Cứ
điểm Quang Thạnh nằm trên địa bàn xã Sơn Kim, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi,
ở đây có trận địa phòng ngự của một tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến Mỹ thuộc Lữ
đoàn "Rồng Xanh"và một đại đội bộ binh thuộc sư đoàn "Mảnh
Hổ" của quân chư hầu (Nam Triều Tiên). Từ cứ điểm này, bọn giặc thường
xuyên cho quân xuống càn quét, cướp phá, giết người cướp của các thôn làng Cẩm
Sơn, Phúc Hậu 3, Phúc Hậu 4, thôn Tây Khánh, Trường Thọ, Trà Bình và xóm Ninh
Long gây nên nhiều tang tóc, đau thương cho dân làng, lòng căm thù giặc của
quân và dân Sơn Tịnh ngút trời, nhưng trước một cứ điểm phòng ngự mạnh như
Quang Thạnh thì bộ đội địa phương và dân quân du kích không thể đập tan được,
chỉ chờ quân chủ lực về chiến đấu. Trung đoàn bộ binh 1, Sư đoàn 2 Quân khu 5
được giao nhiệm vụ quan trong này. Nếu không xoá sổ cứ điểm Quang Thạnh thì
nhân dân Sơn Tịnh sẽ còn khổ sở, chết chóc, đau thương ngày càng nhiều thêm, có
gia đình người dân ở đây bị giặc đốt nhà, giết cha mẹ chỉ còn lại những em bé
mô côi, tiếng kêu trả thù của đồng bào là nỗi day dứt và mệnh lệnh của cán bộ,
chiến sĩ trung đoàn 1. Tiểu đoàn của Nguyễn Văn Mười được giao nhiệm vụ tiến
công trên hướng chủ yếu, đánh thẳng vào sở chỉ huy địch của cứ điểm phòng ngự
Quang Thạnh. Sau khi đi trinh sát và được cấp trên cho biết tình hình địch, địa
hình, Nguyễn Văn Mười thấy hướng tiến công chủ yếu do tiểu đoàn anh đảm nhiệm
là nơi địch phòng ngự vững chắc, có hào sâu và nhiều lớp rào kẽm gai, mìn các
loại dày đặc. Nhận nhiệm vụ khó khăn và quan trọng này, Nguyễn Văn Mười suy
nghĩ, mình được cấp trên tin tưởng giao nhiệm vụ nặng nề như vậy chỉ bằng cách
làm thế nào để đánh thắng mà thôi. Địa hình, tình hình địch đã nắm chắc, phương
án tác chiến được cấp phê duyệt, tình hình tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ trong
tiểu đoàn ổn định, có ý chí chiến đấu cao. Tuy nhiên, để bảo đảm chắc thắng,
Nguyễn Văn Mười bàn với chính trị viên tiểu đoàn cần phải tiếp tục giáo dục
chính trị, nâng cao tinh thần chiến đấu tốt hơn nữa cho chiến sĩ. Anh trực tiếp
xuống các thôn làng của xã Sơn Kim mời những nạn nhân còn sống sót sau các vụ
càn qué, cướp phát, tàn sát của giặc lên đơn vị kể lại cảnh bắn giết của chúng
cho bộ đội nghe. Mọi người thấy như hiện lên trước mắt mình cảnh quân thù thọc
lưỡi lê vào chỗ kín của phụ nữ, cảnh ông già bà lão bị chặt đầu, xẻo tai, trẻ
con bị chúng cầm hai chân dốc ngược, quảng xuống đất trước sự đau đớn, la hét
tuyệt vọng của những người mẹ. Nghe kể chuyện nhiều cán bộ, chiến sĩ trong tiểu
đoàn không cầm nổi nước mắt, lòng căm thù giặc bốc lên ngùn ngụt, ý chí chiến
đấu dâng lên cao hơn bao gờ hết, ai cũng muốn được cầm súng ra trận tiêu diệt
cứ điểm Quang Thạnh trả thù cho bà con, nhân dân Sơn Kim. Ngay lập tức tiểu
đoàn tổ chức buổi lễ phát động thi đua giết giặc lập công ngay tại chỗ, ai cũng
đăng kí thi đua giết được nhiều giặc, dù có phải hi sinh thân mình.
3
giờ 30 phút ngày 15 tháng 2 năm 1967, Tiểu đoàn 40 của Nguyễn Văn Mười được
lệnh nổ súng tiến công, với khí thế căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết dánh
dâng cao, Tiểu đoàn đã đánh phủ đầu quân địch, mở thông cửa mở vào trận địa
phòng ngự của chúng. Sau những phút bất ngờ quân địch dựa vào trận địa phòng
ngự kiên cố, vững chắc của chúng bắt đầu phản ứng, hoả lực băn ra dày đặc, ngăn
chặn hướng tiến công của tiểu đoàn không cho phát triển. Tiểu đoàn 40 phải dừng
lại trong chiến hào sốc lại đội hình tiếp tục tiến công vào trận địa phòng ngự
của địch. Chính trong lúc gặp khó khăn như thế, Nguyễn Văn Mười nhớ lại kiến
thức bài học chiến thuật ở Trường Võ bị về cách đánh tiến công địch trong trận
địa phòng ngự vững chắc và anh đã tìm ra cách đánh phù hợp nhất. Dưới dưới sự
chống trả mãnh liệt của định, chỉ có tiến công và tiến công thì mới giành được
toàn thắng, bất chợt trong anh hình ảnh người vợ trẻ và hai đứa con gái ngây
thơ đang nở nụ cười như khích lệ anh, tự nhiên Mười thấy như được tiếp thêm sức
mạnh và niềm tin chiến thắng. Anh bình tĩnh chỉ huy đơn vị diệt từng ụ súng, lô
cốt địch, mở thông cửa mở, đánh chắc, tiến chắc từng bước một, hạn chế đến mức
thấp nhất thương vong xương máu đồng đội. Trận đánh diễn ra cực kỳ gay cấn và
ác liệt, hướng tiến công chủ yếu của tiểu đoàn anh phối hợp với hướng tiến công
thứ yếu của Tiểu đoàn 60 đã từng bước làm chủ được khu A và khu B của cứ điểm
Quang Thạnh, thực hiện đúng ý định chiến đấu của cấp trên. Kết thúc trận đánh,
toàn Trung đoàn tiêu diệt 420 tên địch thu nhiều vũ khí trang bị quân dụng. Từ
đó nhân dân quanh vùng không bị bọn địch quấy phá, càn quét, đàn áp nữa. Trung
đoàn 1 nói chung và tiểu đoàn 40 của Nguyễn Văn Mười nói riêng đã hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ.
Cuộc
chiến đấu ở miền Trung vô cùng ác liệt và gian khổ, sau trận Quang Thạnh Nguyễn
Văn Mười tham gia rất nhiều trận đánh trên chiến trường Quảng Nam, Quảng Ngãi,
trong đó có cuộc tiến công và nổi dậy xuân 1968, anh là một trong những tiểu
đoàn trưởng giỏi của Trung đoàn 1, Sư Đoàn 2. Ngày 25 tháng 5 năm 1968 Nguyễn
Văn Mười ngã xuống trong một trận tiến công quân địch, máu của anh đã nhuộm đỏ
đất Quảng Ngãi anh hùng, thịt xương của anh lẫn vào cây cỏ đâu đó của chiến
trường xưa. Nguyễn Văn Mười hy sinh khi chưa kịp nhìn thấy mặt đứa con gái thứ
hai và để lại người vợ trẻ và hai cô con gái nhỏ ngây thơ ở hậu phưong miền
Bắc.
Hậu
phương vẫn nhớ
Cuối
năm 1962 trong căn phòng ở khu tập thể Trường Sĩ quan Lục quân 1 cô công nhân
viên nuôi quân Trịnh Thị Mảy chan hoà niềm vui khi chị sinh cháu gái thứ hai,
nhưng niềm vui ấy ở miền Trung, chiến trường Quảng ngãi, Nguyễn Văn Mười chưa
được biết. Nhớ lại hẹn ước lúc chia tay anh đi chiến trường, chị Mảy đặt tên
con là Xuân Mai, nhưng rồi xứ Huế quê chồng luôn là nỗi trăn trở băn khoăn vì
chị chưa một lần được tới và người thân yêu nhất của chị hiện đang chiến đấu
phía ấy, nên cái tên Thanh Huế được ghi vào giấy khai sinh và từ đó con gái thứ
hai của anh chị được mang tên Nguyễn Thị Thanh Huế. Tin tức về anh ở chiến
trường cứ ít dần rồi bặt hẳn. Chị Mẩy cứ âm thầm nuôi con từng ngày khôn lớn.
Bé Việt Hoa và Thanh Huế đi học về là đòi mẹ cho xem ảnh ba, đọc thư của ba cho
hai chị em nghe. Đến khi biết đọc Việt Hoa thường lấy những là thư đã nhàu vì
đọc nhiều và cả lá đơn tình nguyện đi B của ba đọc cho Thanh Huế nghe, hai chị
em nhớ ba lắm, Việt Hoa chỉ nhớ hình ảnh ba mang máng, bởi khi ba đi B chị mới
hai tuổi, còn Thanh Huế chưa chào đời, nên hai chị em cứ bắt mẹ kể chuyện về
ba. Biết ba ở chiến trường miền Nam đánh giặc anh dũng, hai chị em ngầm thi đua
nhau học giỏi, chăm ngoan để đợi ngày ba về để được khoe với ba và nhận quà
thật nhiều. Việt Hoa càng lớn càng học giỏi, những năm cuối của bậc học phổ
thông ở Trường Tùng Thiện chị là một trong những cô học trò giỏi và chăm ngoan.
Năm 1978, Việt Hoa là một trong số ít học sinh của trường Tùng Thiện lúc ấy đỗ
đại học. Việt Hoa vào Đại học tổng hợp văn, được tiếp xúc với dòng văn học hiện
đại, nhất là văn học trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ, Việt Hoa rất trân trọng,
thấy cuộc kháng chiến của dân tộc mình vĩ đại quá, thiêng liêng quá. Để có được
chiến thắng toàn vẹn, non sông thu về một mối, đất nước độc lập, tự do, Tổ quốc
đã phải hy sinh biết bao người con đất Việt. Máu đào của các liệt sĩ đã tô thăm
non sông, Chị biết trong huyền tích anh hùng đó có sự đóng góp xương máu của
người cha kính yêu của mình. Hơn thế nữa, chị càng thấy sự hi sinh cực kì lớn
lao của mẹ. Tiễn cha lên đường đi chiến đấu, mẹ một mình ở nhà nuôi con, ba hi
sinh, mẹ âm thầm nuốt nước mắt và đứng vững trước nhứng cám rỗ, xa ngã của đời
người con gái đang còn tuổi thiếu thời ở vậy nuôi con, vĩ đại quá, lớn lao quá.
Quả thật, không có mẹ là chỗ dự lớn nhất về vật chất và tinh thần thì không
biết chị em Việt Hoa và Thanh Huế sẽ như thế nào. Với chị, mẹ là đỉnh cao vạn
dặm, mẹ là cánh chim bằng, mẹ là hòn vọng phu là bức tượng đài, bức phù điêu
ngàn lần Hoa-Huế ngượng mộ. Mẹ ơi! con thương ba, con nhớ ba bao nhiêu, thì con
thương mẹ bấy nhiêu và hơn thế nữa. Nhiều lần Việt Hoa thầm nói như vậy, cô
nghĩ chỉ có học và học thật giỏi thì mới đền đáp công ơn ba mẹ mà thôi.
Những
năm tháng ngồi trên nghế của Trường Đại học tổng hợp văn, Việt Hoa lại càng
thấm thía điều đó hơn nhiều lần, những bài văn hay mà thầy cô giảng về anh
chiến sĩ, anh giải phóng quân Việt Hoa như thấy hình bóng Ba mình trong đó.
Cúng như bao người lính, Ba đi ra chiến trường bằng cả nhiệt tình của tuổi
trẻ,dẫu biết rằng sẽ phải chấp nhận những hi sinh "Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh". Trong huyết quản của Việt Hoa luôn chảy dòng máu truyền
thống của người cha thân yêu. Tốt nghiệp đại học, là con liệt sĩ Việt Hoa được
tổ chức ưu tiên phân công đi làm cô giáo ở một trường sĩ quan Quân đội, nhưng
Việt Hoa tình nguyện trở về Trường Sĩ quan Lục quan 1 thân yêu, nơi ba mình đã
từng công tác, ở đó có mẹ vẫn ngày ngày tần tảo lao động nuôi con, ở đó có
truyền thống của gia đình, có động lực để nâng mình lên trong cuộc sống. Việt
Hoa sẵn sàng về trường với cương vị là nhân viên của Ban nghiên cứu khoa học,
tạm thời gác lại ước mơ trở thành cô giáo được đứng trên bục giảng của những
giảng đường mà thời sinh viên cô từng mơ ước. Dưới mái nhà tập thể Lục quân, 3
mẹ con đã hoà mình cùng với Nhà trường không ngừng phát triển và lớn mạnh. Từ
một nhân viên Việt Hoa phát triển thành giảng viên, rồi phó chủ nhiệm, chủ
nhiệm bộ môn Văn-Tiếng Việt, cùng các thầy cô trong bộ môn dạy cho học viên lớp
trẻ những bài văn của một thời gian khổ
mà hào hùng của dân tộc về truyền thống Nhà trường. Hiện nay, Viẹt Hoa là trung
tá phó Chủ nhiệm Khoa Ngoại ngữ-Tiếng Việt của Nhà trường, Thanh Huế là thiếu
tá nhân viên Tài chính, hai chị em đã có chồng, con thành đạt và là những gia
đình hạnh phúc.
Mỗi
lần về thăm mẹ, Việt Hoa lại đến bên bàn thờ Ba thắp nén nhang của tình phụ tử
và biết ơn ba. Cám ơn ba đã cho con truyền thống gia đình, đã cho con dòng máu
của Người, đã cho con cái ý chí mãnh liệt không chùn bước trước khó khăn, để
hôm nay con nối tiếp con đường ba đã chọn. Ba ơi! dẫu ba có đi xa nhưng đồng
đội của ba vẫn nhớ ba nhiều, các bác các chú có điều kiện vẫn đến thăm gia đình
ta và thắp hương cho ba đấy. Thượng tướng Nguyễn Chơn-nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc
phòng, Thiếu tướng Trần Bá Khuê, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 5 mỗi lần đi công
tác đến trường đều tìm đến thăm gia đình ta, thắp hương tưởng niệm ba và động
viên các con cố gắng phấn đấu để không phụ công ơn của Ba. Chúng con đã làm
được điều đó, ba cứ yên lòng. Mẹ ở nhà đã có chúng con lo. Mấy chục năm trời
rồi, mẹ vẫn đợi ba về đấy ba ơi. Ba có linh thiêng xin phù hộ cho mẹ được khoẻ
mạnh, để mẹ mãi là chỗ dựa vững chắc cho cuộc đời chúng con. Ba là truyền
thống, mẹ là ngọn nguồn. Truyền thống của ba, ngọn nguồn của mẹ nâng bước chúng
con đi, chắp cánh cho chúng con bay cao, bay xa. Công ơn đó chúng con ghi lòng, tạc dạ không bao giờ nguôi
quên. Những dòng nước mắt của Việt Hoa cứ chảy dài mỗi khi đứng trước bàn thờ
ba. Mẹ Mảy đã đứng bên Việt Hoa từ lúc nào không biết, mẹ ngậm ngùi thắp một
nén nhang trân trọng dâng lên bàn thờ ba. Tay mẹ lần sờ bức ảnh đã ố mầu, mẹ
lấy xuống lau đi lau lại, cố làm sạch thêm cho tấm hình, để mẹ con được nhìn ba
rõ hơn. Ôi người mẹ Việt Nam, người mẹ nào cũng anh hùng như thế cả, mất mát,
đáu thương và khói hương làm tóc mẹ bạc mầu. Mẹ vẫn đợi ba về đấy ba ơi!
––––––––
GÃ CHÓ LI-HU
––––––
Nó
là một con chó ghẻ, sắp chết, nhiều ngày bị đói, nó đi vật vờ, xiêu vẹo, vớ
được cái gì ăn cái đó. Không có chỗ trú
ngụ, nó ngủ trong một cái hốc đất của khu nhà bỏ hoang, nó chỉ ra ngoài khi thấy
thật an toàn, hễ có bóng người nó vội chui thụt vào ngay. Đói bụng, nó vạ vật
đến các hố rác nơi người ta đổ đủ thứ bẩn và thức ăn thừa xuống đó, vớ được nó
ăn vội vàng rồi nhanh chóng lại chui tọt vào hang nằm im. Tuy đã lớn nhưng cả
ngày chẳng thấy nó sủa một tiếng, bụng đói rơ xương, thỉnh thoảng nó rên ư ử,
trông thật cám cảnh.
Một
ngày kia, hôm đó nắng ráo, nhưng nó sợ không dám ra khỏi hang, đói quá, không
chịu được nó lết tấm thân gầy nhom đến hố rác bên đưòng, không đủ sức, nó gục
ngã trên đường đi, mắt nó vẫn mở, ngực nó thoi thóp, mồm rên đứt đoạn, nó nằm
chờ chết, ngày tận số của nó đã đến, vấn đề chỉ còn là thời gian mà thôi !
May
thay, giữa lúc nó không còn hy vọng vào sự sống, bỗng có một người nông dân đi
làm đồng qua chỗ nó nằm, thấy một con chó đáng thương xắp chết. Thấy động, theo
bản năng, hai mắt nó sáng lên, cố lấy hết sức tàn kêu lên ư ử. Biết con chó còn
sống, người nông dân đứng lại nhìn "Trời con chó này xắp chết đến nơi rồi,
chắc đói lắm đây, thật tội nghiệp, thôi ta nhặt về đổ cháo cho nó ăn, may ra
còn sống được để giữ nhà cũng tốt". Nghĩ thế, nên người nông dân miễn
cưỡng nhặt nó lên bỏ vào chiếc rổ còn dính phân mang về nuôi. Từ hôm đó, nó
được cứu sống. Do có sự chăm sóc tận tình của người nông dân, ngày qua ngày, nó
lớn lên trông thấy, các nốt ghẻ lở bay dần đi, trước nó gầy rơ xương giờ đây
ngày càng trơn lông, đỏ da. Nhà người nông dân đã có 2 chú chó ngang tầm tuổi
nó, nhưng trông lớn hơn hẳn và nhanh nhẹn, da dáng. Cậu con trai ông chủ yêu
quý lũ chó kia hơn nó. Biết thân biết phận nó đành âm thầm cam chịu những thiệt
thòi. Khi ăn, bao giờ nó cũng phải ăn sau với khẩu phần ít hơn. Nhưng trong
công việc nó lại là chú chó chăm chỉ và cần mẫn hơn, nó giữ nhà cẩn thận hơn
nhiều, có chú gà nào mà bén mảng vào sân là nó xông ngay ra đuổi thẳng cổ,
không cho gà làm bẩn sân của ông chủ. Nhà có việc gì quan trọng nó lầm lũi nằm
một góc quan sát, không dám quậy phá, nhưng nếu có khách lạ, hoặc trẻ con chui
rào vào vườn là chú ta lao ngay sủa gâu gâu, cắn gấu quần cố gắng giữ chặt lấy
đối thủ, chờ ông chủ hoặc người nhà lên tiếng nó mới thả đối thủ ra, thể hiện
sự mẫn cán và trung thành với chủ rất rõ ràng. Chính vì thế, dần dần nó được
ông chủ và cậu con trai quý mến hơn cả 2 chú có kia. Được thể, nó càng làm tốt
hơn công việc và bổn phận của một con có giữ nhà. Cái đáng quý là nó không bao
giờ tranh ăn khi có mặt ông chủ và người nhà, chỉ khi nào chủ nhà đi vắng thì
nó mới thể hiện bản tính tàn bạo của một con chó hoang, có cái gì ăn được là nó
cướp ngay và cho vào mồm nhai ngấu nghiến, 2 chú chó nhà biết nhưng không làm
gì được nó. Nhỏ người nhưng nó rất nhanh và khoẻ, mũi nó rất thính, chân nó
chạy rất nhanh, cái nhanh bản năng tranh ăn của chó hoang. Về mọi mặt nó hơn
hẳn 2 chú chó kia hợp lại. Bởi thế, khi chủ vắng nhà là nó lấn át tất cả, nó
chỉ hiền từ khi có chủ ở nhà lúc này nó dễ bảo, đáng thương, nhường nhịn và cam
chịu làm sao. Phải thừa nhận là khi ông chủ cần thì nó rất được việc, chủ ra
đồng nó tung tăng chạy trước dẫn đường, mũi ngửi ngửi ra điều tích cực lắm.
Ngoài ruộng, hễ thấy bóng con chuột nào là chết với nó, bản tính chó hoang trỗi
dậy, nó lao đến vồ được ngay. Nó xục xạo từng chiếc hang, đánh mùi phát hiệt ra
cái hang nào có chuột, rồi sủa gâu gâu báo cho chủ biết. Bởi vậy đi đâu ông chủ
và cậu bé cũng muốn cho nó đi theo, dần dần nó chiếm được cảm tình với lòng tin
của ông chủ. Từ chỗ chỉ là con chó hoang ốm yếu, đến giờ nó trở thành là một
con chó nhanh nhẹn và khoẻ mạnh được chủ tin dùng nhiều hơn. Hai chú chó nhà
vai trò bị mờ nhạt hẳn đi, suốt ngày bị chủ nhà quát mắng là vô tích sự. Mặc dù
công lao của các chú không kém gì gã chó hoang kia. Ban đêm hoặc khi vắng chủ
gã chó hoang ngủ khì, ban ngày lười chảy thây, nhưng khi nghe tiếng chủ về từ
xa nó đã bừng tỉnh dậy, xăng sái, chạy ra, chạy vào ra điều ta tích cực lắm.
Ông chủ và cậu bé ngày càng yêu thích gã ta hơn và đặt cho nó một cái tên nghe
rất Tầu: Li Hu. Từ đó mỗi khi nghe tiếng huýt sáo của cậu bé hay nghe ông chủ
gọi Li Hu là nó có mặt ngay. Gã rất hiểu ý ông chủ và cậu bé, vứt ra một vật
gì, chỉ cần gọi Li Hu lấy về đây là gã ta lao ra cắp lấy mang về cho cậu chủ
ngay, dù xa đến mấy vật đó là cục đá đã ném vào bụi rậm gã vẫn nhận đúng. Ban
ngày đàn gà đang kiếm ăn quanh vườn chỉ cần ông chủ ném một vật gì đó về phía
chú gà nào và như muốn bảo "Li Hu bắt nó cho ta" là gã lao đến bắt
ngay được chú gà đó để ông chủ mổ thịt, tất nhiên gã cũng được phần gặm những
khúc xương. Từ đó, gã ta ngày càng coi thường hai chú chó nhà đáng thương, với
bản tính ranh mãnh, nhanh nhẹn của chó hoang, gã bắt đầu chèn ép hai chú chó
nhà. Khi chủ cho ăn, gã ngồi nhìn chưa ăn vội, để cho hai chú chó nhà bắt đầu
ăn, lừa lúc chủ không để ý, gã lao vào cắn bật các chú ra khỏi chỗ thức ăn, rồi
điềm tĩnh lui ra góc sân ngồi nhìn như có vẻ hiền từ lắm. Khi chủ quay lại cứ
tưởng rằng hai chú chó kia tấn công gã trước, rồi thì tiếng quát mắng đổ dồn về
hai chú, thậm chí mỗi chú còn phải nhận thêm một cái đá của cậu bé, thật tội
nghiệp và đáng thương. Lúc này gã mới mon men đến chỗ thức ăn hầu như còn
nguyên vẹn ăn lấy ăn để và chẳng để giành một tí gì cho hai chú chó kia. Biết
vậy, nhưng hai chú chó nhà đáng thương đành chịu, bởi giờ đây sức lực của chúng
cộng lại cũng không thắng nổi gã chó hoang. Gã ngày càng lớn lên trong thấy,
bốn chân gã cao, bụng thon, tai dõng, mắt đỏ ngầu, mõm to, răng nanh dài và
sắc, gã mà cắn thật là không dễ chịu chút nào. Cuộc sống cứ thế duy trì đều, gã
ngày càng hung hăng hơn, hai chú chó nhà ngày càng yếu đuối và nhút nhát, đến
đuổi một con gà ra khỏi sân cũng khó, nói chi đế chống lại gã chó hoang.
Một
ngày kia, khi cậu bé đã lớn khôn, đi học xa trên thành phố, ít khi về thăm quê;
ông chủ ngày càng già yếu, không đủ sức để làm những việc nhà và cũng chẳng thể
quát mắng được lũ chó nữa. Bản chất chó hoang của gã Li Hu ngày càng bộc lộ rõ
ràng. Gã tác oai tác quái, bắt đầu là gã lục nồi ăn vụng, nếu thức ăn hoặc cơm
nguội chủ nhà không treo cao là gã xơi tất. Gã đuổi đàn gà chạy tao tác trong
sân, dồn đến một góc vườn, bắt dần những chú gà con xé thịt ăn ngang nhiên. Ông
chủ biết nhưng không đủ sức ngăn cấm gã, đàn gà cứ hao dần theo năm tháng, mà
gã thì càng béo tốt và ngang tàng hơn. Khi khách đến thăm nhà, gã ta sủa ầm ĩ,
rồi lừ lừ đi vòng phía sau cắn trộm làm khách đau đớn, ông chủ thì mất mặt.
Quát tháo thế nào gã cũng không nghe, lấy gậy đánh, gã chạy ra xa quay đầu lại
nhe răng gầm gừ. Tệ hại hơn là gã bướng bỉnh ra mặt, sức yếu ông chủ đành bất
lực, không tài nào làm gì được, đến là khổ sở với gã, hầu như gã làm chủ gia
đình. Từ đó gã ngang tàng phá phách, cắn người, cắn súc vật. Hành động của gã dẫu
trong khuôn khổ gia đình nhưng không qua khỏi con mắt của an ninh xóm. Một buổi
sáng, gã thấy hai an ninh xóm vào sân, chợt gã nghe tiếng rít gió và loang
loáng của hai chiếc gậy vụt tới tấp vào đầu vào lưng gã, gã thấy đau nhói trên
đầu, mặt mũi tối tăm mù mịt, gã quỵ xuống chết nhăn răng, lè lưỡi. Ông chủ
không thèm ăn thịt gã, hai thanh niên an ninh xóm xỏ gậy khiêng gã về bắc nồi
mổ thịt. Từ đó, người ta không còn thấy tiếng sủa của gã chó hoang ở nhà ông
chủ nữa.
Nguyễn
Văn Lai
CHÚ NGỰA Ô VÀ NHỮNG CÚ ĐÁ HẬU
–––
Nó
là chú ngựa non, giống ngựa Đông Á được đưa từ một vùng quê về vườn thú quốc
gia nuôi dưỡng. Tên chú là ĐOLY, mầu lông của chú ta đen tuyền, óng ả đến lạ
lùng, chú ngựa đang tuổi lớn, có tiếng hí vang rất cao giọng. Quả thật là một
chú ngựa xông xáo, trên đồng cỏ trong vườn thú, chú tha hồ tung tăng, sải những
bước dài vượt xa các chú ngựa cùng trang lứa. Đúng là một chú ngựa ô tuyệt đẹp,
trông chú mới kiêu hãnh làm sao. Từ nơi xa xôi, dưới sự cai quản của một đứa
trẻ mục đồng luôn kè kè bên cạnh chăn dắt chú, ở đó chú ta chưa bao giờ được tự
do. Nay thoát khỏi vùng quê nghèo đói, được nhập vào đàn gia súc trên đồng cỏ
mênh mông của vườn thú quốc gia, chú ta như chim sổ lồng, bay nhảy tung tăng,
mới khoe hết được sức mạnh của tuổi trẻ. Chân chú thon dài, móng tròn nhỏ, diện
tích tiếp đất ít, nên chú chạy rất nhanh, 4 vó chú cứng cáp, chân sau khoẻ và
chắc chắn, thỉnh thoảng chú ta chúi người phía trước bật 2 chân sau lên cao tạo
thành một cú đá hậu dũng mãnh như một cơn sấm sét. Những cú đá như thế chú doạ
được khối người. Mặc dù chưa đá trúng ai bao giờ, nhưng những cú đá hậu của chú
thực sự tạo nên sự kinh hoàng cho các loại động vật 4 chân trên đồng cỏ. Nhiều
lần chăn thả đàn gia súc, cậu chủ phát hiện ra chú ngựa ô tinh nghịch này có
những cú đá hậu hùng dũng đó, nên cậu thích chú ta lắm. Mỗi khi đàn gia súc
được thả ra khỏi khu nhốt, bao giờ chú ta cũng xông xáo băng lên trước, chạy
dẫn đầu cả đàn theo hướng doi chỉ của cậu chủ đến khu đồng cỏ. Khi cậu chủ bỏ
doi xuống chú ta cất tiếng hí vang như báo hiệu với cậu chủ rằng "Tôi
tuyệt đối chấp hành cái doi của cậu".
Trên
đồng cỏ, chú ta được tin dùng như một con gia súc đầu đàn, chú chạy tới, chạy
lui bao quát đàn gia súc thay cho lũ chó chăn ngựa của cậu chủ. Chú vừa ăn vừa
quan sát đồng loại, hễ có một chú ngựa, chú dê hay chú bò nào tách khỏi đàn là
chú lao đến tung cho một cú đá hậu trời giáng, làm cho không một gia súc nào
giám chống lại sự cai quản của chú. Duy chỉ có một lần chú ta định ép con bò
mộng đi chệch hướng doi chỉ của cậu chủ là chú bị dính sự phản đòn của chú bò
đực rất khoẻ mạnh đó mà thôi. Lần ấy, từ phía sau đàn gia súc chú ngựa non
phóng lên ép sát con bò mộng vào đàn, bất ngờ bị nó vặc chiếc sừng dài và nhọn
hoắt vào mặt, đau điếng, may mà không trúng mắt, chỉ bị sựợt nhẹ nơi mi mắt toé
máu. Ngay lập tức, cậu chủ phi ngựa lên quật tới tấp doi da vào mông con bò và
bắt nó đi vào đàn đúng hướng. Chú ngựa ta nhận được sự bênh vực và giành được
cảm tình, sự yêu mến, tin tưởng cậu chủ. Là ngựa non nên chú mau lành vết
thương, nhưng trên vành mắt vẫn còn một vết sẹo như thường trực cảnh báo chú ta
"Hãy coi chừng những cặp sừng nhọn đó, đừng có dựa vào ông chủ mà đá hậu
lung tung".
Tuy
nhiên, trên đồng cỏ chú ngựa ô này rất được việc, cậu chủ chỉ việc thả đàn gia súc
rồi đi chơi hoặc làm việc khác, việc canh giữ và chăn dắt gia súc đã có chú
ngựa non lo. Cả ngày trên đồng cỏ chưa bao giờ thấy chú ta thôi chạy nhạy, nếu
không gặm cỏ thì chú ngẩng cao đầu quan sát đàn gia súc chứ không bao giờ nằm ể
oải như những chú bò, chú dê khác. Có lần đàn gia súc bị những con chó rừng tấn
công, cũng bằng những cú đã hậu dũng mãnh, chú ngựa ô đã hất tung con chó rừng
đầu đàn ra xa, kêu ăng ẳng, làm cả bầy chó sợ hãi chuồn thẳng. Cũng có lần bầy
chó rừng rất đông đang đói tấn công rất quyết liệt, biết một mình khó chống
lại, chú ta hí vang báo hiệu khẩn cấp cho cậu chủ biết. Khi cậu chủ ra đến nơi,
đàn chó rừng đã bắt mất một chú bê non, còn chú ngựa ô đang tung vó đá hậu lung
tung ra điều tích cực tấn công kẻ thù lắm. Từ đó, cậu chủ hiểu được sự bất lực
của chú ta và lòng tin của cậu đối với chú bị giảm sút đáng kể. Chú ngựa non
cũng biết được điều đó, vì thân phận chỉ là ngựa, với khả năng bảo vệ đàn chỉ
đến thế là cùng, nhìn ánh mắt cậu chủ chú hiểu. Bất lực với lũ chó rừng luôn tấn
công đàn gia súc, ngược lại chú ngựa non càng hung hăng bắt nạt những kẻ yếu
đuối và chậm chạp như lũ bò, dê trong đàn. Những con bò già, dê non chỉ cần đi
chệch khỏi đàn hoặc tách xa một đoạn là chú tung những cú đá hậu răn đe. Sự
hung hăng của chú ngựa non nhiều lúc cũng quá đáng, chú ta tự do ngoài
"vòng pháp luật", khi thì ở cùng đàn, khi thì chạy vụt lên, có lúc
lại nhởn nhơ sát bìa rừng nhẩn nha gặm cỏ chẳng để ý gì đến sự nguy hiểm cận kề
từ những bộ răng nanh của lũ chó rừng có tài săn mồi cự phách. Thấy thế cậu chủ
nhiều lần quát mắng chú ta, thậm chí còn giơ roi định trừng phạt chú, nhưng chú
bưởng bỉnh co cẳng chạy xa, cậu chủ chẳng làm gì được. Có lần cậu chủ còn bị
chú ta vùng vằng đá hậu suýt làm bị thương, may mà cậu chủ tránh được và cũng
kịp cho chú một doi da đau điếng. Từ đó, chú ngựa ít nghe lời cậu chủ, chỉ nghe
theo sự điều khiển của ngọn doi da chuẩn bị vụt vào mông mà thôi. Chú ta tỏ ra
bất cần, thỉnh thoảng tung những cú đã hậu vào không khí nghe vun vút như có ý
muốn doạ ai "xin đừng đụng vào tôi".
Ngày qua ngày, lúc không có mặt cậu chủ, chú
ngựa cứ ngang tàng phá phách, chú tung vó đuổi đàn gia súc chạy hết bãi cỏ này
đến bãi cỏ khác, không cho ăn cỏ ổn định tại một chỗ. Rồi đàn gia súc cứ gầy đi
trông thấy, lượng sữa ít hẳn, vườn thú buồn thiu. Cậu chủ biết được, nhưng tiếc
chú ngựa non khoẻ mạnh, xông xáo nên bỏ qua mọi chuyện và cứ thế chú ngựa non
có cuộc sống tự do phóng khoáng. Hàng ngày chú ta thích ăn cỏ cùng đàn hoặc
tách ra khỏi đàn cũng được. Mỗi buổi sáng khi đàn gia súc được thả ra là chú ta
phi thẳng đến bìa rừng nơi có những vạt cỏ mật non tơ để chén thoả thích. Nơi
đây các loại gia súc khác không dám bén mảng vì sợ lũ chó rừng tấn công, còn
chú ngựa non chẳng sợ chút nào. Chú cậy vào đôi chân thon khoẻ, chạy nhanh lại
có những cú đá hậu tuyệt vời. Chú yên chí và cho rằng nếu có con chó rừng dại
dột nào tấn công thì khó tránh khỏi cú đá trời giáng của chú. Sự hấp dẫn của
những ngọn cỏ mật non tơ cứ đưa chú tách xa khỏi đàn gia súc, tiến sâu vào rừng
hơn. Đến một ngày, khi đang thưởng thức sự ngon lành của hương cỏ mật, lúc chú
ngẩng lên bỗng thấy nhiều đôi mắt đỏ ngầu của bầy chó rừng hung ác. Bất giác cả
lũ chó xông thẳng vào tấn công chú trên nhiều hướng. Bằng thế võ cổ truyền chú
ngựa non tung ra những cú đá hậu, nhưng đàn chó lì lợm và ranh mãnh kịp thời né
tránh được. Chúng rai rẳng bám riết tấn công, cả đàn chó quây tròn và bám chặt
lấy chú ngựa, cắn chân, cắn mũi, nhảy lên lưng, vồ vào mắt vào tai… Chú ngựa ta
quay tròn chống đỡ, cố gỡ thế để thoát ra khỏi vòng vây của lũ chó rừng, nhưng
lại càng bị vây chặt hơn. Xung quanh chú ngựa, cả đàn chó bám riết và tha hồ
cắn xé. Đuối sức, chú từ từ gục xuống để cho lũ chó rừng chết tiệt thoả thích
giằng co.
Chỉ một giờ sau, người ta không còn thấy bóng
dáng chú ngựa non đâu nữa, ở cạnh bìa rừng còn sót bộ xương ngựa tươi nguyên.
Cái giá phải trả quá đắt, giá như chú ngựa non biết nghe lời cậu chủ và biết
giữ kỷ luật của đàn gia súc thì đâu đến nỗi gì. Bây giờ thì quá muộn, hỡi chú
ngựa non háu đá đáng yêu ơi!
Nguyễn
Văn Lai
CHÚ CHÓ TÂY CHĂN BÒ TRÊN ĐỒNG CỎ
––––
VêNa là một chú chó Tây được đưa từ
vùng ALASKA xa xôi của nước Mỹ về thảo nguyên phương Đông để chăn bò. VêNa đang
ở tuổi trưởng thành, bên đồng cỏ nước Mỹ nó đã từng được dùng để chăn cừu cho
các ông chủ trang trại. Nhưng vì chưa đủ khôn so với chúng bạn đồng loại, làm
việc vẫn còn chểnh mảng và tham ăn. Khi có người đến trang trại hỏi mua chó về
chăn bò, chủ trại đã quyết định bán VêNa để họ đưa về xứ Viễn Đông làm việc.
Được nhốt vào cũi, đưa lên máy bay đi suốt hơn 10 tiếng đồng hồ về miền Đông Á,
VêNa không tỏ ra phản ứng gì cả. Nó chỉ hơi băn khoăn rằng, rồi đây được cai
quản, chăn dắt những chú bò to tướng, toàn cơ bắp, khác hẳn loài cừu mềm mại
liệu có khó không? Nhưng khi xuống thảo nguyên trên cương vị là kẻ cai quản,
tiếp xúc với những chú bò ngu si và ngớ ngẩn VêNa thấy dễ chịu hẳn. Ôi chao!
thảo nguyên rộng mênh mông quá, với những đồng cỏ xanh mướt mắt, những chú bò
đủng đỉnh gặm cỏ. Buổi sáng, bình minh lên, chiếu những tia nắng xanh rải khắp
thảo nguyên. Những giọt sương còn vương trên ngọn cỏ gặp ánh mặt trời long lanh
giống như những viên ngọc, đẹp đến lạ kỳ. Xa xa là những quả đồi bát úp và
những vạt rừng nham nhở chắc đã bị lâm tặc tấn công. Những mái nhà sàn bên vách
núi, gợn sau những làn khói mờ buổi sáng, cũng đẹp như một bức tranh bột mầu
mới vẽ, rất thanh thản và bình yên. Điều đó chỉ có ở nơi này, bên xứ sở xa xôi
của nó không thể nào có được. Tự nhiên VêNa cảm thấy thích thú, nó muốn được
thả ngay ra thảo nguyên để được chạy nhảy tự do, với đôi chân dài của chó Tây
nó tha hồ làm chủ thảo nguyên. Nguyện vọng của nó đâu đã được thực hiện ngay,
VêNa được đưa về nhốt trong khu nhốt chó chăn bò của thảo nguyên. Tại đây, VêNa
được sống chung với những con chó thuần chủng phương Đông nhỏ nhắn và ranh
mãnh, gần đó cũng có một vài chú chó Tây già đang bị xích với dáng mệt mỏi,
chắc giờ đây không được chủ tin dùng nữa, mắt của chúng gườm gườm, hằn học nhìn
VêNa có vẻ rất bực bội. Ngày mai chắc VêNa sẽ được lĩnh "ấn tiên phong"
trên cương vị chú chó đầu đàn, cùng với lũ chó phương Đông chăn bò trên thảo
nguyên-Nó nghĩ như vậy và thấy rất đáng ghét những chiếc răng nanh trắng dài
đang nằm ở miệng của những chú chó Tây già đang nhe răng doạ nạt nó, may mà
chúng đã không còn được tin dùng nữa.
VêNa đã có thâm niên trong nghề chăn
cừu ở Bắc Mỹ nhưng chưa nhiều, nay chuyển sang chăn bò ở phương Đông nên cũng
không khác nhau mấy, VêNa trổ tài được ngay. Trên thảo nguyên mênh mông đầy
nắng và gió của xứ xở nhiệt đới Viễn Đông, VêNa thấy dễ chịu hơn ở xứ tuyết Bắc
Mỹ. Chăn lũ bò sữa chậm chạm này cũng không khó. Với thân hình thon chắc, 4
chân cao dài của giống chó Bécgiê nên VêNa cùng với những con chó săn thuần
chủng phương Đông dễ dàng làm chủ đồng cỏ. Chỉ có điều chăn cừu khác hẳn chăn
bò. Đàn cừu phương Bắc có bộ lông trắng muốt, dày đẹp và có kỷ luật nghiêm minh
và tính cộng đồng cao. Sống trong khu nhốt, những chú cừu ngoan ngoãn luôn dựa
vào nhau, tuyệt đối trung thành và chấp hành mệnh lệnh của chủ, không ngang
tàng, phá phách, biết nhường nhịn nhau khi ăn cũng như khi uống. Lúc chăn thả
trên đồng cỏ, đàn cừu cũng ngoan ngoãn tuân theo một qui tắc nhất định, luôn đi
thành đàn, ăn cỏ tập trung, biết nghe theo sự giám sát của chó chăn cừu, ít
chạy nhảy tung tăng, đi đến nơi về đến chốn. Còn đàn bò ở miền Nhiệt đới này
khác hẳn với đàn cừu Phương Bắc, thân hình những con bò to lớn, thô kệch, mầu
lông không thuần nhất, con vàng, con trắng, con khoang. Tính tình đàn bò thì
bướng bỉnh khó bảo. Trong khu nhốt chúng thường xuyên mất trật tự, lúc no thì
xô sát, húc nhau liên miên, khi đói thì vươn cổ giống lên ồ ồ. Khi chủ mở cổng
chuồng thì chen chúc lao ra chặt chội, chẳng con nào chịu nhường con nào, thậm
chí còn vặc nhau chảy cả máu đầu, máu tai. Khi được thảnh thơi trên đồng cỏ bao
la, ít khi chúng tập trung ăn theo đàn mà thường tách ra từng tốp một vài con
theo từng "gia đình nhà bò". Chỗ này một vài chú bò mẹ và bò con, chỗ
kia một gia đình bò khác. Những chú bò đực cồng kềnh, vênh váo chạy từ nhóm bò
này đến nhóm bò kia làm nhiều điều bạy bạ, chẳng có kỷ luật gì hết. Thậm chí,
khi hứng lên chúng còn ngẩng đầu, cong đuôi phóng bạt mạng từ đầu đàn bò đến
cuối đàn bò hoặc chạy từ góc đồng cỏ này đến góc đồng cỏ kia, thật là vô kỷ
luật. Chăn thả đàn bò phương Đông này quả là mệt, VêNa thỉnh thoảng phải phóng lên ngăn cản không cho những chú
bò đực hỗn láo tách xa khỏi đàn hoặc mỗi khi chúng có hành động càn quấy, phá
đám, thế mà đôi khi chúng chẳng chịu nghe lệnh, lại còn xịt mũi, vặc sừng chống
đối ra mặt.
Chỉ có đàn áp và tàn bạo thì mới chăn
dắt dàn bò phương Đông tốt được thôi. Từ đó, VêNa phát huy sức mạnh cơ thể và
hàm răng sắc nhọn của mình (một chú chó Tây chăn cừu) để trừng trị lũ bò phương
Đông bướng bỉnh. Ban đầu VêNa bắt nạt những chú bò non, thường được gọi là
những con bê, bằng cách tấn công khi chúng ể oả nằm một chỗ, chẳng chịu ăn cỏ
gì cả. VêNa nhảy bổ vào chúng cắn và bắt chúng đứng dạy ăn cỏ hoặc chạy về phía
mẹ chúng rúc đầu vào bầu vú to tướng tu sữa ừng ực. Từ đó nhiều con bê hễ nhìn
thấy VêNa là sợ đến phát khiếp, rồi ngoan ngoãn chấp hành nội quy của đàn. Khi
đã bắt nhạt được những chú bê non mà không thấy bò mẹ, bò bố có phản ứng chống
đối gì, VêNa bắt đầu tấn công sang bò lớn, chú ta nhằm vào những con bò đực
tách ra khỏi đàn chạy nhảy, không chịu ăn cỏ để cắn xé. Bằng hàm răng sắc nhọn
chú lao vào cắn chân cắn mõm, nhằm khuất phục những chú bò bướng bỉnh. Bị đau
những con bò phương Đông dần dần phải theo sự điều khiển của VêNa.
Từ đó, hàng ngày trên đồng cỏ mêng
mông của thảo nguyên, VêNa thoải mái đàn áp lũ bò, hễ thấy con nào có dấu hiệu
tách ra khỏi đàn là VêNa tấn công ngay, đàn bò đến khổ sở vì sự đàn áp của
VêNa. Kỷ luật trên thảo nguyên ngày càng nền nếp, trật tự hơn, còn VêNa trở
thành một con chó Tây tàn bạo, lũ chó rách phương Đông dần dần ít việc làm hơn
và trở thành vô dụng. Ngày nối ngày, VêNa từng bước trở thành ông chủ thứ hai
trên thảo nguyên mênh mông và tươi đẹp này. Bất chợt, VêNa nghĩ rồi một ngày
nào đó mình già đi, không còn đủ sức chăn bò trên thảo nguyên nữa, liệu lũ chó
rách phương Đông ấy có để cho mình được yên ổn như thế này nữa không, hay chúng
sẽ xúm vào cắn xé mình như hôm nay minh đang cắn xé lũ bò ngu ngốc kia không?
Nguyễn
Văn Lai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét