Trong tâm trí
mọi người, nói đến làng quê Việt Nam là nói đến hình tượng cây đa, giếng nước,
sân đình, là rặng tre, bờ rào, ao làng, đường thôn ngõ xóm và chiếc cổng làng.
Ở đó được chứng kiến bao buồn vui, ở đó tình người chan chứa, là tiếng bước
chân trâu lộc cộc. Bởi, làng quê Việt Nam thân thương lắm quên sao được
vị ngon ngọt của ấm nước chè xanh của những buổi họp làng, là rặng cúc tần, là
mái nhà tranh còn vấn vương khói bếp lúc chiều tà. Tết đến, xuân về, làng quê
nhộn nhịp đông vui, nhà nhà xắm sửa cây nêu, pháo tết, gói bánh chưng xanh,
thịt mỡ dưa hành đủ cả. Cổng làng thường ngày chỉ gặp những người trong thôn,
trong xóm với cày cuốc ra đồng canh tác trên những thủa ruộng cằn làm ra hạt
lúa củ khoai. Những ngày xắp tết, người trong làng gác lại việc canh nông, xem
trong vườn nhà mình có hoa trái, rau lá gì đáng giá để thu hoạch gánh ra chợ
bán, chuẩn bị cho ngày tết đến. Thỉnh thoảng cổng làng đón những chiếc xe máy,
xe ô tô của những người khá giả trở về, nặng nề với những đào quất, rượu chai,
mứt tết, hòm to, thùng nhỏ. Những người đỗ đạt đi thoát ly, những người làm
công nhân ở các nhà máy, xí nghiệp không phải trực tết cũng hối hả kéo nhau về,
nào vợ con, bạn bè, nào xe to xe nhỏ, dày đen, quần áo com lê, mái đầu bóng lộn
thung dung, rảo bước qua cổng làng. Cũng có người lặng lẽ âm thầm với chiếc túi
sách mép sờn về làng sau những tháng ngày dài miệt mài nơi đất khách, quê người
làm ăn thua thiệt trở về tay không với dăm ba trăm ngàn không đủ xắm nhiều loại
quà tết. Những cô cậu sinh viên nghèo áo trắng cũng hớn hở trở về, đeo tòng
teng chiếc cặp số bên trong chỉ có mấy chục ngàn tiền lẻ, vài bộ quần áo nhầu
nát, dăm ba gói kẹo cỡ 3 nghìn đồng. Những anh lính trẻ được về quê ăn tết vai
khoác ba lô, chân đi dày vải lộp cộp bước qua cổng làng mặt mằy hớn hở gặp ai
cũng hỏi, cũng chào, vài ba em nhỏ chạy theo đòi anh chia kẹo hoặc thưởng cho
mấy cái bóng bay xanh, đỏ, tím vàng. Có những anh sỹ quan quân đội, công an
chân đi dày đen, mặc đồ dân sự nửa lính, nửa dân, bước chân hối hả quen như đi
điều lệnh, dáng người lao về phía trước, vừa xuống khỏi xe đã vội vàng qua cổng
làng, nhanh chóng về gặp vợ con chỉ sợ các cô nàng đi vắng. Vài ba chiếc xe thồ
chở rau qua cổng lên chợ huyện bán buôn nhanh chóng trở về đi thêm chuyến nữa.
Những chiếc xe công nông đã bị cấm nhưng vẫn xả khói đen mù, lao qua cổng làng
chất đống trên thùng mấy bộ bàn ghế sa lông thời mới chở thuê cho mấy nhà vừa
mới “ăn nên, làm ra”. Thêm mấy cụ già râu tóc bạc phơ, gậy trúc thửng thờ dẫn
cháu qua cổng làng đến đánh cờ với mấy
người bạn đồng niên. Vài bà vãi trẻ khoác áo nâu sòng, tay mang túi lụa, mũ len
guốc mộc hối hả đến tụng tinh gõ mõ cho gia chủ cúng đón ông bà. Cổng làng nghe
chát chúa tiếng loa nhắc nhở bà con thôn xóm cảnh giác bảo vệ an ninh khi tết
đến xuân về; cấm đốt pháo nổ, pháo hoa, pháo thăng thiên kẻo dẫn đến hoả hoạn
của những ngày tháng củ mật. Cổng làng nghe ầm ầm tiếng máy sát gạo, nghiền
khoai, nghiền bột chuẩn bị cho ba ngày tết. Nghe tiếng réo rắt của tiếng nhạc
xập sình ồn ào đến khó chịu của những chiếc loa thùng giá rẻ đang phát hết công
xuất phục vụ cho các đám cưới, đám hỏi, dạm ngõ, bỏ miếng trầu. Cổng làng nghe
thân thương tiếng trẻ trâu í ới gọi nhau ra bờ đồng cắt cỏ cho lũ trâu bò ăn
thêm trong ba ngày tết. Những chị nông dân chân đi xà cạp, mặt chùm kín khăn,
giọng điệu khàn khàn âm ấm rủ nhau cùng đi nhổ mạ cấy nốt thửa ruộng đã cày bừa
kỹ. Cổng lành nghe quen quen tiếng bà đồng nát ngày ngày đến làng mua lông gà,
lông vịt, sừng trâu, chai lọ. Cổng làng đón mùa xuân về qua hương thơm thấm
từng mái rạ, nghe mùa xuân chuyển mình qua mơ hồ tiếng nảy mầm của hạt đỗ, hạt
ngô còn vùi trong đất. Thấy tết đang về trong từng nhánh lá, nhành hoa từ tay
thiếu nữ chảy chợ mùa xuân. Cổng làng vui khi thôn xóm được mùa trong năm tất
bật gánh lúa, thồ khoai từ đồng ruộng về làng, buồn khi mưa gió não nề, lũ lụt
tung hoành tàn phá dân quê của những ngày hè còn đó chưa quên. Cổng làng yêu
khi trai gái lứa đôi dập dìu cùng nhau chảy chợ xắm sanh quần áo, màn chăn
chuẩn bị cho mùa cưới hỏi; ghét khi nhìn thấy đàn em nhỏ chơi trò bắn súng múa
gươm, la hét chửi nhau, cấu xé, đánh nhau sứt chán, mẻ đầu. Cổng làng đau khi
thấy máy xúc, máy ủi san đi cả những bụi tre, giếng nước, ao làng. Cổng làng
vợi đi nỗi buồn khi thấy khi các cụ già
chan chứa yêu thương, kiên trì bảo ban, dạy dỗ cháu con học hành chăm chỉ, phấn
đấu nên người.
Làng quê nghèo đói, nhưng chan chứa
tình người, cổng làng chứng kiến tất cả những buồn vui, thay đổi. Dẫu cho năm
tháng đi qua, làng xóm thôn quê vẫn vững vàng cùng với chiều dài lịch sử, lớp
lớp cháu con luôn nối tiếp truyền thống cha ông phát triển trên các trận tuyến.
Dù có thất bại, hay thành đạt ở phương trời nào, nhưng mỗi độ xuân về, tết đến
họ đều nhớ về quê hương làng xóm. Muốn được trở về, bước qua cổng làng thân
quen, để vào nhà mình báo hiếu với cha mẹ, ông bà, tổ tiến. Cổng làng là niềm
kiêu hãnh, là hoài niệm, là sự linh thiêng, là niềm tự hào của bao thế hệ. Cổng
làng là nét đẹp văn hoá, là sản phẩm vật chất và tinh thần của cha ông để lại,
là di sản của đất nước, là công trình kiến trúc đặc trưng cho mỗi làng quê. Đó
là niềm tự hào sâu sắc, là dấu ấn, là mốc son cho mỗi con người sinh ra, lớn
lên và trưởng thành. Ai đó còn vướng bận điều gì, còn bước đi những bước sai
lầm hãy ngoái đầu nhìn lại chiếc cổng làng thân quen sẽ thấy mình trong đó mà
cứng rắn hơn để bước tiếp những bước đi đúng đắn, tránh những chông gai, cặm
bẫy trên đường đời, để mà phát triển, trưởng thành. Những người xa quê, trở về
bước qua cổng làng hãy tự soi lại mình xem có xứng đáng với sự mong mỏi của xóm
làng hay không? Cuộc đời và sự nghiệp dẫu sang hèn, điều đó không quan trọng,
xin hãy sửa mình theo đạo đức, lối sống mẫu mực của làng quê đất Việt mấy nghìn
năm lịch sử.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét