Chủ Nhật, 22 tháng 2, 2015

HẠNH PHÚC ĐẾN MUỘN

HẠNH PHÚC ĐẾN MUỘN

Ngày ấy, đơn vị học viên sĩ quan chúng tôi đi học tập dã ngoại đóng quân trong nhà dân tại một thôn nhỏ thuộc huyện Lương Sơn, Hòa Bình. Xóm nhỏ ấy ẩn mình sau rặng tre xanh tốt dưới chân một triền đồi hình vòng cung giống như một con cò đang lặn lội kiếm ăn. Đồi cao, cây tốt, tre xanh thật là một làng quê yên ả, ấm cúng, đúng là “đất lành chim đậu” chiều chiều từng đàn cò trắng chấp chới bay về đây trú ngụ trên những ngọn tre, tiếng kêu ồn ả, làm náo động cả dáng chiều thôn xóm. Mỗi buổi sáng tinh mơ, khi mặt trời chưa thức giấc đàn cò đã thức dậy, nhộn nhạo rồi bay đi kiếm ăn, từng vệt trắng vút lên không trung tản về các cánh đồng đâu đó kiếm mồi. Rồi mỗi buổi chiều cò lại bay về thôn trú ngụ làm nên khoảng lặng xôn xao và thanh bình của một vùng đồi núi thôn quê. Chẳng biết có phải nhiều cò về xóm làm tổ hay không hoặc do dáng đất của xóm có hình giống như một con cò đang lặn lội kiếm ăn mà tên xóm được đặt là “Xóm Cò” hoặc “Làng Cò”.
Xóm Cò dân cư không đông lắm, với trên hai chục nóc nhà, tuy thế cũng đủ để đại đội học viên chúng tôi đóng quân học tập dã ngoại. Tiểu đội 4 của tôi được phân công ở trong ngôi nhà tranh giữa xóm, chủ nhà là một bà mẹ già, hai cô gái lớn và một đứa cháu ngoại khoảng 4 tuổi, gia đình dành cho chúng tôi toàn bộ 2 gian nhà ngoài còn ba mẹ con họ ở gian buồng phía trong. Khi đàn cò tao tác đi kiếm ăn cũng là lúc chúng tôi tập trung thành đội hình ra thao trường huấn luyện tập bài chiến thuật “Tiểu đội bộ binh tiến công địch phòng ngự ở địa hình rừng núi”. Những ngày đóng quân trong nhà dân, sau giờ học tập, huấn luyện vất vả chúng tôi được sống trong tình cảm và không khí ấm cúng tình quân dân cá nước làm vợi bớt đi những mệt nhọc của nắng gió thao trường. Buổi tối miền sơn cước bao giờ cũng đến xớm, mùa đông thường lạnh hơn, khi không phải sinh hoạt, tiểu đội chúng tôi thường cùng gia đình ngồi quây quanh bếp lửa sửi ấm, nướng khoai lang, sít xoa bóc vỏ mời nhau ăn. Bà mẹ của hai cô gai thật là vui tính và quý mến bộ đội, bà thường dành cho học viên chúng tôi những củ khoai, củ sắn nướng thơm lừng, khoảng cách giữa chủ nhà và bộ đội cứ ngắn dần và thân thiết đoàn kết gắn bó. Chúng tôi chuyện trò và biết được hoàn cảnh của gia đình, nhà có hai chị em, cô em gái thứ hai đã học xong phổ thông cơ sở, không có điều kiện học tiếp cấp III ở nhà giúp mẹ việc ruộng đồng nương rẫy, cô chưa có chồng. Cô chị tuổi chừng trên 30 đã có một đứa con trai lên 4 tuổi, suốt ngày cháu chỉ thích đi theo các chú bộ đội. Không biết chồng cô làm gì ở đâu mà những ngày đóng quân tại gia đình cúng tôi không hề gặp. Qua tìm hiểu, được biết chị tên là Dung, đã đi bộ đội mới về phục viên được mấy năm nay. Khi về chị mang theo một đứa con trai, chị bảo chị chưa có chồng, nhưng đã có con, điều đó làm chúng tôi tò mò muốn nghe chị kể lại những vui buồn gian khổ đời lính của chị. Thế rồi, chị kể: Năm đó, chị nhập ngũ vào bộ đội hậu cần, được đi học y tá rồi chị trở thành người chiến sĩ quân y phục vụ tại Quân y viên 175 đóng quân ở Thành phố Hồ Chí Minh. Viện Quân y 175 là một bệnh viện lớn của Quân đội, là tuyến cuối quân y ở các tỉnh phía Nam. Ngày ấy, Viện 175 tràn ngập thương binh từ các tỉnh biên giới Tây Nam và chiến trường nước bạn Campuchia về điều trị. Nhiều thương binh nặng với những vết thương cực kỳ nguy hiểm rất cần sự cứu chữa của những bác sĩ giỏi và bàn tay chăm sóc, tình cảm thương yêu của những nữ hộ lý, y tá của bệnh viện. Chị là một trong những người rất cần như vậy, là nữ y tá đảm nhiệm cương vị hộ lý chị hết lòng chăm hóc thương binh, từ phụ giúp bác sĩ mổ, gây mê hồi sức đến sự chăm lo nơi ăn, chốn ngủ, gường nằm cho thương binh, có những lúc chị phải tận tình bón từng thìa cháo, thìa sữa cho thương binh nặng, thay băng, rửa vết thương, ngồi làm chỗ dựa và hát cho thương binh ngủ để họ dịu bớt những cơn đau trên thân thể không lành lặn của họ. Chị làm việc nhiệt tình, quên cả vất vả, mệt mỏi nhằm san sẻ những nỗi đau cho các anh bộ đội bị thương. Chị dành tình thương thật sự cho người chiến sĩ, chỉ mong sao cho các anh mau khỏi bệnh, lành vết thương được xuất viện xớm. Đáp lại tình thương yêu chăm sóc của chị, nhiều thương binh được điều trị khỏi vết thương, luôn cám ơn sự chăm sóc đó. Trong sự vất vả, trách nhiệm cũng có niềm vui, niềm hành phúc nhen nhúm, nảy sinh từ trong đau đớn. Có một anh thương binh đồng hương cùng tỉnh Hòa Bình đã tốt nghiệp Trường Sĩ quan lục quân 1 bị thương khi chiến đấu trên đất bạn, trong thời gian điều trị tại bệnh viện luôn nhận được sự quan tâm, gần gủi, chăm sóc, tâm sự của chị đã đem lòng yêu chị, một tình yêu thắm thiết của sự trân trọng và biết ơn. Những lúc gần gủi chăm sóc, anh thường kể lại cho chị nghe về những kỷ niệm đẹp từ thủa còn thơ cắp sách đến trường, chăn trâu cắt cỏ trên quê hương Hòa Bình, làm cho chị bùi ngùi nhớ quê da diết và cũng từ lúc nào chị đem lòng yêu anh thắm thiết mặc dù anh là thương binh nặng. Chị biết và trân trọng một phần xương máu của anh đã gửi lại nơi chiến trường biên giới để cho quê hương được bình yên. Như có phép mầu, đón nhận tình yêu và bàn tay chăm sóc dịu dàng của chị, thương tật của anh hồi phục nhanh chóng. Trong một buổi tối cùng anh đi dạo trong khuôn viên bệnh viện, hai người đã nói với nhau những lời yêu thương tha thiết, một nụ hôn nóng hổi của người thương binh đồng hương đậu trên môi người nữ y tá viện quân y và rồi từ đó tình yêu của họ ngày càng nồng thắm như bao lứa đôi trai gái khác. Không cầm lòng được chị đã trao cho anh tất cả sự trinh nguyên của người con gái. Thề là, ít lâu sau một mầm sống trong chị đang lớn lên từng ngày, chị cảm thấy hạnh phúc đang đến rất gần với người con gái sắp được làm vợ, làm mẹ.
Thế rồi, mặt trận biên giới phía Tây Nam ngày càng nóng bỏng, thương binh về bệnh viện càng nhiều. Tạm ổn định thương tật, chuẩn bị ra viện, đơn vị đưa xe về đón anh sang đất bạn tiếp tục chiến đấu cứu dân thoát khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt. Anh đột ngột ra mặt trận, buổi chia tay thật vội vã, chỉ có những cái bắt tay rất chặt và đôi mắt đắm đuối nhìn nhau như hẹn ước ngày trở về gặp lại, anh chẳng nói lên lời mà chị cũng chỉ òa lên khóc tiễn anh mà không kịp hẹn ước với nhau được điều gì, chỉ để lại đôi dòng địa chỉ. Anh trở lại mặt trận chiến đấu vẫn chưa kịp biết mình đã có con với một người con gái mà mình luôn quý trọng và biết ơn. Thế là chị sẽ trở thành mẹ mà chưa một ngày được làm vợ. Khi đứa bé chào đời cũng là lúc chị nhận được quyết định phục viên rời quân ngũ. Trở về gia đình, chị chẳng có gì cả ngoài tài sản quý giá nhất đó là đứa con trai ngoài giá thú, nhưng đó là niềm an ủi, một hạnh phúc không trọn vẹn của đời người con gái. Thôi thế cũng được, mình cũng đừng gây khó dễ cho bất kỳ ai, cũng chẳng cần tìm quê nội của con làm gì để gia đình anh ấy khỏi bận tâm vì có một người phụ nữ bỗng dưng bế con về trả “nhà chồng”. Dân làng quê anh sẽ đồn thổi rằng anh là con người phụ bạc, con trai chị lại mang tiếng là đứa con vô thừa nhận - chị nghĩ như vậy.
Về quê, chị và con âm thầm sống, âm thầm chịu đựng. Chị cùng mẹ và em gái tần tảo xớm hôm lao động trên đồng ruộng, nương rẫy làm ra hạt lúa củ khoai, nuôi sống chính mình và xã hội. Vốn là một nữ y tá có tay nghề vững, chị gúp dân làng chữa bệnh, nhà ai có người ốm cần đến là chị có mặt ngay, chị không nề hà vất vả xớm khuya giúp đỡ mọi người, nên chị luôn được dân làng trong xóm Cò quý trọng và yêu mến.
Nghe chị kể mà chúng tôi buồn với nỗi buồn và vui với niềm vui nho nhỏ mà đầy nỗi chân chuyên của chị.
Một buổi chiều, từ ngoài thao trường về, trên đường làng chúng tôi gặp một người đàn ông ở độ tuổi trung niên, dáng người mảnh khảnh, mặc bộ quân phục cũ, dắt chiếc xe đạp thống nhất đang ngó nghiêng như muốn tìm một nhà ai đó, thỉnh thoảng lại nhìn vào một tờ giấy nhỏ như muốn tìm hiểu điều gì. Khi gặp một bà cụ già, người đàn ông lễ phép hỏi:
- Cụ cho cháu hỏi thăm, đây có phải là xóm Cò không ạ?
- Đúng rồi, đây chính là xóm Cò! Thế chú hỏi nhà ai?
- Dạ cháu tìm nhà cô Dung ạ, cô Nguyễn thị Dung là bộ đội phục viên ấy mà!
- Cô Dung ý tá phải không?
- Dạ phải ạ!
- Thế thì nhà cô ấy ở phía trước đấy, ngôi nhà tranh có hàng cau trước cửa. Chắc giờ này cô ấy đi làm về rồi đấy, tiện đường để tôi đưa chú đến đó.
Đến ngôi nhà tranh có hàng cau trước cửa, người đàn ông ngập ngừng dắt xe vào ngõ. Bà cụ già đứng ngoài đường gọi vào:
- Cô Dung y tá ơi! nhà có khách ra mà đón kìa.
Rồi bà cụ tiếp tục đi làm việc của mình.
Đang ngồi nhặt rau dưới bếp, chị Dung nghe tiếng gọi, báo có khách đến thăm, chị vội đứng dậy chạy ra ngoài, nhìn thấy người đàn ông dắt xe đạp đã vào đến sân có khuôn mặt quen quen. Bất chợt chị nhận ra người mà mình chờ đợi bấy nhiêu năm, nay mới xuất hiện, chị đứng xững người, mớ rau muống trên tay chợt rơi xuống đất lúc nào mà chị không hề biết. Đôi dòng nước mắt của chị chẩy dài mà không tài nào thốt nên lời.
Chẳng khác gì chị, người đàn ông cứ vậy đứng nhìn chị khóc mà chẳng có lời nói và hành động gì, chiếc xe đạp không có chỗ dựa lăn kềnh ra đất. Tự nhiên như hai luồng điện lóe sáng.
- Dung em, anh đi tìm em mãi! Đúng là em rồi?
- Anh Tuấn, có phải anh Tuấn thương binh không?
- Anh đây, tưởngrằng trong cuộc đời này anh không được gặp em nữa!
- Thế anh đi đâu mà mãi đến giờ mới đến tìm em. Vào nhà đi anh, sao cứ đứng ngoài sân thế này.
Tuấn vội vàng chạy về phía Dung như muốn ôm người yêu vào lòng nhưng ngượng ngập, bẽn lẽn, một lúc lâu sau hai người mới dắt tay nhau vào nhà. Thằng bé con chẳng hiểu mô tê chi cả liến láu hỏi mẹ “Nhà mình có khách hả mẹ. Bác bộ đội này ở xa đến hả mẹ, Bác có ăn cơm nhà mình không?”
Thế rồi, ít lâu sau, đám cưới của chị Dung và anh Tuấn được tổ chức rất đơn giản nhưng ấm cúng. Chị theo chồng về làm dâu nhà người tuy có đôi chút muộn màng nhưng tràn đầy hạnh phúc. Người mẹ của đứa trẻ ấy sau những năm tháng dài âm thầm chờ đợi không hy vọng nay đã được làm vợ.
Một mối tình của lính dẫu gặp nhiều gian truân và vô vàn trắc trở do hoàn cảnh chiến tranh để lại nay đã được đoàn tụ. Hạnh phúc luôn mỉm cười với ai biết trân trọng và kiên trì chờ đợi, niềm tin người lính mãi mãi được tỏa sáng đối với những ai có tấm lòng cao thượng.
Chiến tranh có thể cướp đi nhiều thứ, có thể cả tính mạng nhưng tình yêu thì mãi mãi không thể lấy đi.
Hạnh phúc dẫu muộn màng nhưng niềm tin luôn chiến thắng.

Khâm phục và trân trọng trước sức chịu đựng và niềm vui hạnh phúc của chị, tập thể Tiểu đội 4 chúng tôi làm bài thơ tặng chị:

Chị vẫn là y tá!
(Tặng chị Dung làng Cò)
Mới hôm nào chị còn là y tá
Cứu chữa bao người từ biên giới Tây Nam
Những vết thương quằn quại cơn đau
Có tay chị, đôi tay mền săn sóc
          Hôm nay chị về làng bao khó nhọc
          Chăm tỉ tảo tần nương sắn, vườn ngô
          Những suy nghĩ đời tư trên nét mặt
          Vẫn chẳng nhòa cái ánh mắt dịu hiền
Chúng tôi gặp chị trong căn nhà tranh nhỏ
Khi hành quan dã ngoại cách xa trường
Nhà chị hẹp chặt chỗ, thiếu giường
Chị vẫn nhường anh em tôi chỗ ngủ
          Nghe tâm sự, chúng tôi trân trọng chị
          Với tấm lòng ngưỡng mộ chị hôm nay
          Nghe chị kể càng thấy nhiều ý nghĩa
          Công việc chị làm giúp bọn lính tụi tôi
Bà tay chị, bàn tay người y tá
Những sáng, những chiều vất vả với bệnh nhân
Những chiến sĩ bị thương từ mặt trận
Nhẹ bớt nỗi đau khi có chị đến gần
          Những đêm hè ở Viện 175
Chị thức trắng vì những ca rất nặng
Cầm máu, gây mê, hồi sức chẳng ngại ngần
Rồi ngủ gật bởi vì nhiều căng thẳng
          Bao khó nhọc chẳng ngại ngần không nghỉ
          Bởi với người chị thấu nỗi những tình thương
Trong gian khổ chị vẫn coi thường
Với người bệnh chị nhường cơm, tiếp máu
          Nghe chị kể càng thấy đời nhiều ý nghĩa
          Những chuyện riêng tư của chị chắc còn nhiều
          Rồi thông cảm với nỗi niềm của chị
          Hoàn cảnh éo le cuộc sống phủ phàng
Nay chị về với xóm làng, đồng ruộng
Bàn tay mền lại chăm sóc những ruộng nương
Lúa khoán sản có chị nhiều năng xuất
Khắc phục dần dần những thiếu thốn khó khăn
          Nhưng ở chị với bàn tay chăm chỉ
          Đưa cuộc đời đi tới những niềm tin
Hạnh phúc đến bất ngờ trong âm thầm chờ đợi
Để ngày mai tươi sáng ngàn lần.

    Nguyễn Văn Lai

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét